thứ đều hư hại, sũng nước biển và phủ đầy rong rêu. Lòng tàu xộc lên một
mùi kinh khủng, dù hầu hết là mùi rong biển khô.
Bọn trẻ trượt trên đám rong biển khi chúng đi vòng quanh khoang tàu.
Trong hầm không hề rộng rãi. Phía dưới các ca bin có một khoang lớn, ánh
đèn pin giúp bọn trẻ phát hiện ra nó.
“Đó hẳn là chỗ giấu các hòm vàng,” Julian nói. Nhưng trong khoang
chẳng có gì ngoài nước và cá! Bọn trẻ không thể đi xuống bởi vì nước quá
sâu. Một, hai chiếc thùng trôi nổi trên mặt nước, nhưng chúng đã mở toang
và chẳng có gì trong đó.
“Tôi nghĩ đó là thùng nước, thùng thịt hoặc bánh quy,” George nói.
“Chúng ta hãy đi vòng quanh các chỗ khác một lần nữa, chỗ mấy cái ca bin
ấy. Được ngắm những chiếc giường nơi thủy thủ đoàn từng ngủ chẳng phải
rất thú vị sao? Và nhìn cái ghế gỗ cũ kĩ kia xem. Thật đáng ngạc nhiên là nó
vẫn ở đó sau bao nhiêu năm như vậy! Trông những thứ treo ở mấy cái móc
kia nữa, giờ bụi bặm và phủ đầy rong biển, nhưng trước kia hẳn chúng từng
là xoong chảo bát đĩa của người đầu bếp!”
Đi một vòng hầm tàu quả là chuyến thám hiểm kỳ diệu. Lũ trẻ dồn hết
tâm trí vào những chiếc hòm có thể chứa vàng bên trong, nhưng có vẻ như
lục lọi khắp nơi cũng chẳng tìm được cái hòm nào như thế!
Rồi chúng đến một ca bin to hơn hẳn những ca bin khác. Góc ca bin có
một giường ngủ, một con cua lớn đang nằm chình ình trên giường. Một thứ
đồ đạc cũ trông có vẻ là một chiếc bàn hai chân, bên ngoài bám đầy những
mảnh vỏ xám, đứng tựa lưng vào giường. Những giá gỗ, được trang trí bởi
rong biển xám xanh, treo lệch lẹo trên tường ca bin.
“Đây hẳn là ca bin riêng của thuyền trưởng,” Julian nói. “Đây là ca bin
lớn nhất. Nhìn kìa, cái gì ở góc kia vậy?”
“Một cái chén cũ!” Anne nói và nhặt nó lên. “Còn đây là nửa còn lại của
cái đĩa. Em đoán là thuyền trưởng đang ngồi đây uống trà khi con tàu bị
đắm.”
Điều này khiến lũ trẻ cảm thấy thực sự không thoải mái. Cái ca bin chật
chội này thật tối tăm và nặng mùi, còn mặt sàn thì ướt và trơn trượt. George