không thể mở ra.
Nhưng một khi George đã vào cuộc với con dao bỏ túi của nó, cạo bỏ
lớp gỉ thì nắp hộp bắt đầu lỏng ra, và sau khoảng mười lăm phút thì bật mở!
Bọn trẻ sốt sắng cúi người ngó vào cái hộp. Bên trong là một ít giấy tờ
cũ và một quyển sách bìa đen. Chẳng còn gì hết. Không miếng vàng nào.
Không kho báu. Đứa nào cũng cảm thấy hơi thất vọng.
“Nó hoàn toàn khô ráo,” Julian ngạc nhiên nói. “Không bị ướt dù chỉ
một chút. Lớp vỏ thiếc giữ cho mọi thứ hoàn toàn nguyên vẹn.”
Cậu cầm cuốn sách lên và mở ra. “Đây là nhật ký hải trình của cụ tổ em.
Anh hầu như không đọc được chữ viết tay của cụ tổ. Nó quá nhỏ và kỳ
quặc.”
George nhặt một tờ trong đám giấy lên. Nó làm bằng da dê dày, đã ngả
vàng vì thời gian. Cô nhóc trải nó ra trên cát và ngắm nghía. Bọn còn lại
cũng nhìn nhưng hoàn toàn không hiểu nó là gì. Trông có vẻ giống một cái
bản đồ.
“Có lẽ đây là bản đồ của một nơi nào đó cụ tổ phải tới,” Julian nói.
Nhưng đột nhiên bàn tay George run bắn lên khi cầm tấm bản đồ, và mắt nó
rực sáng khi ngước nhìn những đứa kia. Miệng nó há ra, nhưng nó không
nói gì cả.
“Chuyện gì thế?” Julian sốt ruột hỏi. “Chuyện gì? Em đánh rơi mất lưỡi
ở đâu rồi à?”
George lắc đầu và rồi đột ngột hối hả tuôn một tràng. “Julian! Cậu có
biết đây là gì không? Nó là bản đồ pháo đài cũ của tôi, bản đồ pháo đài
Kirrin khi còn chưa đổ nát. Nó cho thấy cả khu hầm ngục nữa! Và nhìn này,
nhìn xem chữ gì viết trên góc hầm ngục này!”
Nó đặt ngón tay run rẩy của mình lên một góc bản đồ. Những đứa khác
cúi rạp để xem đó là gì - và, được in với kiểu chữ thời xưa là một từ lạ lùng:
THỎI.
“Thỏi!” Anne nói, bối rối. “Nghĩa là gì? Em chưa nghe từ này bao giờ.”
Nhưng hai cậu con trai thì đã nghe rồi. “Thỏi!” Dick kêu lên. “Ôi, đó
chắc chắn là những thỏi vàng. Chúng được gọi là thỏi.”