bất cứ đâu! Còn về tiền thì anh đừng lo, tôi vừa được thừa kế một di sản,
người anh em ạ! Tôi sẽ tiêu cho đến đồng xu cuối cùng, nhưng nhất định tôi
sẽ tìm được bạn của tôi! Còn tên kazắc gian phi đã đánh lừa chúng ta thì sẽ
không thoát khỏi tay ta! Nó đi đâu chúng ta sẽ theo đấy! Nó chui xuống đất,
chúng ta cũng sẽ chui xuống đất! Nó đến với quỉ, chúng ta sẽ đến hẳn chỗ
quỉ sa tăng!
- Đến quỉ sa tăng làm gì kia chứ - gã Do Thái nói - chẳng cần đến nó
cũng xong.
- Lâyba! - Tsertôpkhanôp nói tiếp - Tuy anh là người Do Thái và tín
ngưỡng của anh là tà đạo, nhưng tâm hồn anh còn khá hơn khối tín đồ Cơ
đốc! Anh hãy thương tôi! Một mình tôi thì chẳng nên công cán gì, mình tôi
không đương nổi việc này. Tôi vốn nóng tính, còn anh là người có đầu óc,
một đầu óc vàng ngọc! Dân tộc anh là như thế này: không học hành mà cái
gì cũng biết hết! Có lẽ anh còn hồ nghi: ông ta lấy đâu ra tiền? Thế thì vào
buồng tôi, tôi sẽ đem tất cả tiền của tôi ra cho anh xem. Anh hãy lấy cả tiền,
lấy cả cây thập ác trên cổ tôi đi nhưng làm thế nào đoạt lại Malêc-Ađen cho
tôi, đoạt lại, đoạt lại cho tôi.
Tsertôpkhanôp run lên như cơn sốt; mồ hôi chảy như suối trên mặt, hoà
với nước mắt, lẫn vào trong hàng ria mép. Ông xiết chặt hai tay Lâyba, ông
van vỉ, suýt nữa thì hôn gã...Ông hóa điên cuồng. Gã Do Thái cố thoái thác,
cả quyết rằng gã không thể đi xa được, gã có công việc bận... Đừng hòng?
Tsertôpkhanôp không muốn nghe gì hết. Không còn cách nào được nữa:
Lâyba đáng thương đành phải ưng thuận.
Hôm sau, Tsertôpkhanôp cùng với Lâyba rời khỏi Bexxônôvô trên chiếc
xe ngựa nông dân. Gã Do Thái nom hơi bối rối, một tay víu vào thành xe,
cả tấm thân mềm nhẽo của gã nảy chồm chồm trên cái ghế ngồi xóc lọng
lên; tay kia gã áp chặt vào khoang ngực áo, chỗ để bọc tiền gói giấy báo.
Tsertôpkhanôp ngồi ngây như tượng, chỉ đảo mắt nhìn quanh và thở căng
lồng ngực.
- Hừ, tên gian phi lẩn trốn, bây giờ thì liệu hồn! - Ông lầm bầm, khi xe ra
đường cái lớn.