giấu tai đi, nom thật đần độn, còn con kia thì trái lại: nó thường ngả một tai
về phía sau và cứ giữ nguyên như thế - đó là nó đang để ý nghe ngóng xem
chủ làm gì! Con kia, khi thấy ở gần nó không được sạch sẽ thì lập tức dùng
chân sau đá vào vách chuồng; còn con này thì thây kệ, có để phân ngập đến
bụng nó cũng mặc. Con kia thì nếu đặt nó đứng ngược chiều gió, nó sẽ hít
căng phổi và rùng mình một cái, con này thì cứ thở phì phì như thường.
Con kia khó chịu vì không khí ẩm ướt khi trời mưa, còn con này thì không
hề gì... Con này thô lỗ hơn, thô lỗ hơn! Vừa không duyên dáng bằng con
kia, vừa kém sáng ý hơn khi điều khiển bằng dây cương - điều đó khỏi phải
nói? Con kia là một con ngựa dễ thương, còn con này...
Đó là những ý nghĩ đôi khi chợt đến với Tsertôpkhanôp và khiến ông cay
đắng trong lòng.
Nhưng lại có lúc ông cho con ngựa của mình phóng thả sức trên cánh
đồng mới cày hay bắt nó nhảy xuống tận đáy cái khe sụt lở và lại nhảy vọt
lên theo bờ khe dốc đứng, khi ấy tim ông lịm đi vì khoái trá, ông buột
miệng reo hò một tiếng vang lừng, và ông biết, ông biết chắc rằng con ngựa
ông đang cưỡi là Malêc-Ađen thực, không có gì đáng nghi ngờ gì cả, bởi vì
còn con ngựa nào khác có thể làm nổi những việc mà con ngựa này vẫn
làm?
Tuy nhiên, dù sao đi nữa thì việc làm của ông cũng không phải là không
có lỗi lầm và không tai hại. Chuyến đi dài đằng đẵng để tìm kiếm Malêc-
Ađen đã buộc Tsertôpkhanôp phải chi rất nhiều tiền. Ông không còn mơ
tưởng gì đến những con chó Kôxtơrôma nữa và khi đi dạo quanh vùng, ông
vẫn một mình một ngựa như trước. Thế rồi, một buổi sáng kia, ở cách
Bexxônôvô năm dặm, Tsertôpkhanôp tình cờ gặp chính đoàn người đi săn
của công tước mà một năm rưỡi trước, ông đã cho ngựa vờn múa một cách
hiên ngang trước mặt họ.
Và lại xảy ra một tình huống như thế này: từ một bờ đất trên sườn đồi,
một con thỏ đột nhiên nhảy ra trước mặt bầy chó! "vồ lấy nó! vồ lấy!" Cả
đoàn đi săn lập tức rượt theo, Tsertôpkhanôp cũng rượt theo, có điều là
không cùng bọn với họ, mà cách họ chừng hai trăm bước về phía bên - cũng