Lukêria im lặng, và tôi ngạc nhiên nhìn nàng.
Tôi ngạc nhiên chính bởi vì nàng kể lại câu chuyện đời mình với thái độ
gần như vui vẻ, không một tiếng thở than, oán trách, chẳng hề phàn nàn và
cầu mong một lời thương cảm.
- Từ sau lần ấy, - Lukêria kể tiếp - em gầy rộc, héo hắt hẳn đi, da dẻ đen
nhẻm lại, đi đứng thật là khó nhọc, và ít lâu sau thì hoàn toàn không sai
khiến nổi đôi chân, không đứng, không ngồi được nữa, nằm liệt giường,
chẳng muốn ăn uống gì cả, càng ngày càng quá ra. Bà cụ thân sinh của ông
giầu lòng nhân đức đã mời thầy thuốc về thăm bệnh cho em và đưa em vào
bệnh viện. Vậy mà bệnh tình của em cũng chẳng đỡ chút nào. Không một
thầy thuốc nào dám nói chắc bệnh của em là bệnh gì. Các ông ấy đã dùng
đủ cách cứu chữa; nào là lấy sắt nung để đốt lưng cho em, nào là đặt em
nằm lên đống nước đá đập nhỏ, nhưng đều vô hiệu. Rút cuộc em chỉ còn lại
là một bộ xương... Thế rồi các ông ấy đều bó tay tất, hết phương cứu chữa,
nhưng để kẻ tàn tật trong nhà chủ thì không được...cuối cùng, em được đưa
về chỗ này, bởi vì ở đây, em có họ hàng thân thích. Và thế là em ở đây, như
ông thấy đấy.
Lukêria lại im lặng và lại gắng gượng mỉm cười.
- Dẫu sao thì tình cảnh của chị thật là đáng sợ? - Tôi thốt lên... và không
biết nói gì thêm, tôi đã hỏi nàng một câu ngu xuẩn biết chừng nào: còn
Pêliakôp Vaxili thì sao?
Lukêria đưa mắt nhìn đi chỗ khác.
- Còn Pôliakôp thì thế nào ư? Anh ấy cứ sầu não, vấn vương mãi, nhưng
rồi thời gian qua đi, anh ấy cũng đã lấy vợ, một cô người làng Glinưi. Ông
có biết làng Glinưi không nhỉ? Cách làng ta chẳng bao xa. Tên cô ta là
Agrafena. Anh ấy yêu em lắm, nhưng anh ấy còn trẻ quá, chẳng lẽ bắt anh
ấy ở vậy sao. Còn em thì kết bạn với anh ấy thế nào được nữa? Anh ấy đã
kiếm được cô vợ phúc hậu, đảm đang, và họ đã có con. Bây giờ anh ấy làm
quản gia cho một nhà ở gần đấy: bà cụ thân sinh của ông đã trả lại tự do cho
anh ấy, và nhờ ơn Chúa, anh ấy sống rất sung túc.