lắm lời, thậm chí còn kể chuyện cổ tích cho tôi nghe. Khi đi qua chỗ anh
lần đầu tiên chúng tôi nghe thấy bánh xe lọc cọc, Filôfây bỗng bật cười.
- Thưa ông, ông có nhớ tôi cứ luôn mồm nói với ông: có tiếng lọc
cọc...lọc cọc...lọc cọc !
Anh ta vung mạnh tay mấy lần... Anh ta cảm thấy tiếng đó rất buồn cười.
Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi về đến làng của Filôfây. Tôi kể với
Ermôlai câu chuyện đã xảy ra với chúng tôi. Lúc này không say rượu, anh
ta không hề biểu lộ một chút thông cảm nào và chỉ ư hữ, không biết là tán
thành hay chê trách, và tôi cho rằng bản thân anh ta cũng không hiểu rõ
điều đó. Nhưng hai ngày sau, anh ta khoái trá báo cho tôi biết rằng chính cái
đêm chúng tôi đi Tula, cũng trên con đường cái lớn ấy, một thương nhân đã
bị bọn cướp giết chết và lấy hết của. Thoạt tiên tôi không tin câu chuyện ấy.
Nhưng sau tôi phải tin: bằng chứng là tôi đã thấy một viên cảnh sát phóng
ngựa đi điều tra. Phải chăng những gã trai ngang tàng của chúng tôi đã đi
dự "đám cưới" ấy về, phải chăng thương nhân ấy chính là "anh bạn trẻ" mà
họ đã đưa đi nằm, nói theo lời gã cao lớn hay bông lơn nọ?
Tôi ở làng của Filôfây năm ngày nữa. Hễ gặp anh ta là tôi bảo: "Thế nào?
Có tiếng lọc cọc hả?".
- Một con người vui tính - Lần nào anh ta cũng trả lời tôi như thế và bật
cười.