phải trình tiếp lên Vatican. Không, tôi đâu có tham vọng lớn thế. Oskar đâu
có muốn được phong thánh. Nó chỉ muốn một phép lạ nhỏ, riêng tư, một cái
gì nó có thể nghe thấy và trông thấy, cốt vạch rõ một lần dứt khoát cho nó
thấy là nên đánh trống để ủng hộ hay chống đối; nó chỉ muốn có một tín
hiệu bảo cho nó biết trong cặp song sinh có đôi mắt xanh, giống nhau như
tạc này, đứa nào, trong tương lai, đáng được gọi là Jêxu hơn.
Tôi ngồi và chờ đợi. Tôi cũng bắt đầu lo lắng. Mẹ chắc đang ở trong
phòng xưng tội, bây giờ dễ thường đã qua điều răn thứ sáu rồi. Cái ông lão
thường vẫn tập tễnh quanh các nhà thờ, lúc này đang tập tễnh qua ban thờ
chính, rồi qua ban thờ bên trái, cúi chào Đức Mẹ Đồng Trinh và hai chú
nhỏ. Có thể lão trông thấy cái trống nhưng không hiểu. Lão lẹp xẹp đi tiếp
và tiếp tục già đi.
Thời gian qua đi và Jêxu vẫn không chịu đánh trống. Tôi nghe thấy
những tiếng nói từ phía ban đồng ca. Mong rằng đừng ai chơi đại phong
cầm bây giờ, tôi lo lắng nghĩ thầm. Nếu họ diễn tập chuẩn bị cho lễ Phục
Sinh, thì tiếng đại phong cầm sẽ át mất những tiếng trống ngập ngừng, yếu
ớt đầu tiên.
Nhưng không ai đụng đến đại phong cầm. Mà Jêxu cũng chẳng đánh
trống. Phép lạ không xảy ra. Tôi đứng dạy khỏi nệm quỳ, khớp gối kêu răng
rắc. Chán ngán và buồn bực, tôi bước trên tấm thảm, kéo lết chân lên từng
bậc một, bỏ qua mọi câu kinh đã thuộc, trèo lên đám mây thạch cao, xới lộn
mấy bông hoa giá trung bình. Lúc này, tôi chỉ muốn lấy lại cái trống của
mình từ thằng nhóc cởi truồng đần độn kia thôi.
Tôi xin nói thẳng và sẽ còn tiếp tục nhắc lại: thật là sai lầm khi cố công
cố sức dạy nó điều gì. Không hiểu làm sao mà tôi lại nẩy ra cái ý ấy. Dù sao
mặc lòng, tôi thu về đôi dùi, nhưng để lại cái trống. Thoạt đầu còn nhẹ
nhàng, nhưng rồi cái nôn nóng của một ông thày nôn nóng, tôi bày cho chú
bé Jêxu rởm thấy phải làm như thế nào. Cuối cùng, lại đặt dùi vào tay nó,
tôi cho nó cơ hội phô bày những gì nó đã học được ở Oskar.