Goldking sầm tối, và với một nhành cây phỉ đã cháy thành than ở chỗ đầu
nhọn, bà vùi những củ khoai tây xuống lớp tro nóng.
Sở dĩ tôi vừa đặc biệt nhắc đến cái váy của bà tôi, sở dĩ tôi đã nói khá
rành rõ: “Bà ngồi xệp dưới đất trong mớ váy” - sở dĩ tôi đặt tên chương này
là “Cái váy ụp”, đó là vì tôi biết rõ mình mang nợ cái món trang phục ấy
những gì. Bà tôi không chỉ mặc một, mà những bốn cái váy chồng lên nhau.
Không phải bà mặc một chiếc váy dài và ba chiếc váy ngắn; bà mặc bốn cái
váy dài như nhau, cái nọ đỡ cái kia; bà mặc váy theo một hệ thống riêng,
mỗi ngày lại đổi trật tự chồng váy. Cái hôm qua mặc ngoài cùng, hôm nay
cho vào trong, dưới một lớp, cái thứ hai thành cái thứ ba. Cái thứ ba hôm
trước giờ ôm sát người. Cái váy bữa qua tiếp xúc với da thịt bà tôi giờ phô
ra họa tiết, nghĩa là chẳng có họa tiết gì: những chiếc váy của bà ngoại
Anna Bronski đều thuần một sắc thái khoai tây như nhau. Hắn là cái sắc
thái này hợp với màu da bà.
Ngoài cái sắc độ ấy, những cái váy của bà tôi còn khác thường ở tầm rộng
quá mức của khổ vải. Chúng khum tròn thành hình chuông, phồng lên và
kêu phần phật khi gió thổi, xẹp xuống khi tắt gió và cả bốn cái xòe ra phía
trước bà khi bà đi xuôi gió. Muốn ngồi xuống, bà phải thu gọn chúng quanh
mình.
Ngoài bốn cái váy thường xuyên phồng lên hoặc rũ xuống, quấn quanh
hay dựng đứng, cứng sững và trống rỗng, bà tôi còn có một cái váy thứ năm
bên cạnh giường nằm. Cái này chẳng có gì khác với bốn cái kia, cũng màu
khoai tây. Hơn nữa, cái váy thứ năm không phải là bất di bất dịch. Giống
như các chị em của nó - bởi vì váy vốn là giống cái mà - nó cũng phải phục
vụ theo chế độ luân phiên, có mặt trong số bốn cái váy được mặc vào người
và cũng như chúng, cứ đến phiên (nghĩa là năm tuần một lần vào ngày thứ
sáu) lại phải đem giặt trong chậu, sáng thứ bảy đem phơi trên dây trước cửa
sổ nhà bếp và khi nào khô, đem là trên tấm ván là.