người nữa, lão "cửu vạn "chêm vào. Người ta bảo giống lươn này đặc biệt
béo sau trận thuỷ chiến Skagerack. Và mấy hôm trước đây, một tay bác sĩ ở
bệnh viện kể với lão về một phụ nữ có chồng tìm khoái lạc với một con
lươn sống. Nhưng con lươn bám chặt trong đó không chịu nhả, thành thử
phải đưa mụ ta vào bệnh viện, và nghe nói sau đó, mụ bị tuyệt đường sinh
nở.
Vậy là lão "cửu vạn" thắt cái bao tải với mớ lươn giầm muối lại và gọn
gàng xốc lên vai. Lão quấn cái dây phơi quần áo quanh cổ và hì hụi đi về
phía Neufahrwasser trong khi con tàu buôn vào cảng. Con tàu có trọng tải
độ mười tám tấn, không phải là tàu Thuỵ Điển mà là tàu Phần Lan, và chở
gỗ chứ không phải quặng sắt. Lão "cửu vạn" mang bao tải hình như có bạn
bè trên tàu vì lão đang vẫy về phía đó, miệng la lớn một điều gì đó. Trên
con tàu Phần Lan, một số người cũng vẫy lại và la một điều gì đó. Nhưng
tôi không không hiểu tại sao cả Matzerath cũng vẫy và la "Ơ hầy, tàu vào
kìa" hoặc một điều vớ vẩn tương tự. Là người vùng Rhine, ông có biết chi
về tàu bè và chẳng hề quen ai là người Phần Lan cả. Cơ mà cung cách của
ông vốn thế: bao giờ ông cũng vẫy khi những người khác vẫy, la hét và vỗ
tay khi những người khác la hét, cười và vỗ tay. Điều đó giải thích tại sao
ông vào Đảng tương đối sớm, khi mà điều đó chưa thật cần thiết, chưa
mang lại lợi lộc gì mà chỉ làm ông tiêu phí những buổi sáng chủ nhật.
Oskar chậm rãi đi theo Matzerath, lão già người Neufahrwasser và con
tàu Phần Lan quá tải. Thỉnh thoảng tôi ngoái nhìn lại vì lão "cửu vạn" đã để
lại cái đầu ngựa ở chân tháp đèn tín hiệu. Nhưng không còn nhìn thấy nó
nữa vì lũ hải âu đã che kín mất rồi… Chỉ còn là một mảng trắng lấp lánh
trên mặt biển xanh, một đám mây mới được gột sạch có thể bay lên không
trung bất cứ lúc nào, cất tiếng kêu trùm lên cái đầu ngựa không còn hí nữa.
Khi thấy chán ngấy, tôi vùng chạy khỏi lũ hải âu và Matzerath, vừa chạy
vừa nắm tay đấm lên mặt trống, vượt lên lão " cửu vạn" lúc này đang hút
một cái tẩu cán ngắn, và đuổi kịp mẹ tôi và bác Jan ở chỗ bắt đầu đập chắn