Đến quảng trường Max-Halbe, chúng tôi xuống và dù sao mặc lòng, mẹ
vẫn khoác tay Matzerath chứ không khoác tay bác Jan như tôi chờ đợi. Jan
đi cạnh tôi và hút nốt điếu thuốc của mẹ.
Trong khu Labesweig, các bà nội trợ theo đạo Thiên Chúa vẫn tiếp tục
đập thảm. Trong khi Matzerath mở cửa căn hộ của chúng tôi, bà Kater, ở
tầng tư cạnh phòng nghệ sĩ trompet Meyn, vượt qua chúng tôi lên cầu
thang. Một cái thảm nâu cuộn tròn vắt trên vai, bà ta giơ hai cánh tay to
tướng hồng hào lên đỡ, phô những túm lông nách màu râu ngô xoắn lại và
dính bết mồ hôi. Hai đầu thảm võng xuống đằng trước và đằng sau bà. Bà
có thể vác một gã dàn ông say rượu trên vai như thế, nhưng chồng bà không
còn sống nữa. Khi cái khối mỡ ấy đi qua chúng tôi trong cái áo thụng đen
bóng mặc trong nhà, mùi nồng nặc từ bà ta xộc vào mũi tôi - nước tiểu, dưa
muối và đất đèn trộn với nhau - chắc bà ta đang thấy tháng.
Lát sau, tiếng đập thảm thình thịch từ dưới sân vọng lên. Nó rượt theo tôi
khắp các phòng, nó truy đuổi tôi riết đến nỗi, rốt cuộc tôi phải trốn vào tủ
quần áo trong phòng ngủ, ở đó, các áo măng-tô, pa- đờ- xuy mùa đông mới
đủ sức dìm đi cái âm lượng gớm ghiếc của tiếng ồn tiền-Phục sinh.
Nhưng không phải chỉ có bà Kater cùng tiếng đập thảm khiến tôi phải
lánh nạn vào tủ quần áo. Mấy người lớn - mẹ tôi, bác Jan và Matzerath -
chưa cởi áo ngoài ra, đã bắt đầu bàn cãi về thực đơn ngày Thứ Sáu Thánh.
Nhưng họ vẫn không ngã ngũ được về món lươn. Như thường lệ, mỗi khi
cãi vã về chuyện gì, họ đều nhớ đến tôi và cú ngã trứ danh của tôi từ cầu
thang hầm kho.
Đó là do lỗi của anh, tại anh tất cả, bây giờ tôi sẽ làm món xúp lươn.
- Đừng có yểu điệu thục nữ thế,
- Anh muốn làm cái gì thì làm miễn là không phải lươn, có bao nhiêu đồ
hộp ở dưới hầm, mang ít nấm lên nhưng nhớ đóng kỹ cái cửa sập đừng để