Tuy nhiên, sự bốc lửa ấy lẽ ra không làm chúng tôi ngạc nhiên. Chúng tôi
không lạ gì những chiều nắng trên tầng hai của Bảo tàng Hải quân, chúng
tôi thừa biết mấy giờ đã hoặc sắp điểm khi ánh hắng lọt vào dưới gờ cửa và
thắp sáng những con tàu. Những ngôi nhà thờ xung quanh cũng góp phần
phân đoạn theo thời khắc tiến trình của ánh nắng trong đó bụi xoáy lộn, gửi
những hồi chuông lịch sử của chúng đến bạn bầu với những sưu tập lịch sử
của chúng tôi.Có gì là lạ khi ánh nắng cũng mang tính chất lịch sử, trở
thành một mục trong bộ sưu tập của Bảo tàng và chúng tôi bắt đầu ngờ là
nó đã âm mưu với đôi mắt hổ phách của Niobe.
Nhưng buổi chiều hôm ấy, chúng tôi không có hứng chơi hoặc làm những
trò khiêu khích dấm dớ, con mắt rực lửa của Niobe càng khiến chúng tôi
ngạc nhiên gấp bội. Ngao ngán, chúng tôi chờ nốt nửa tiếng nữa: Bảo tàng
đóng cửa vào năm giờ đúng.
Hôm sau, Herbert đi làm một mình. Tôi theo anh đến Bảo tàng, nhưng tôi
không thích chờ bên cạnh cửa bán vé, mà tìm một chỗ ở bên kia đường. Tôi
ngồi cùng cái trống trên một quả cầu bằng granít đằng sau có một cái đuôi
dài cho người lớn làm tay vịn. Khỏi cần phải nói là bên kia cầu thang cũng
có một quả cầu tương tự với một cái đuôi bằng gang tương tự. Thỉnh thoảng
tôi mới đánh trống, nhưng đã đánh thì đánh to dữ dội, để phản kháng những
người qua đường, phần lớn là nữ, cứ thích dừng lại nói chuyện với tôi, hỏi
tên tôi và đưa bàn tay nhơm nhớp mồ hôi vuốt mái tóc ngắn nhưng đẹp và
hơi lượn sóng của tôi. Buổi sáng qua đi. Đầu phố Đức Chúa Thánh Thần,
con gà mái bằng gạch đỏ đen của Nhà thờ Nữ Thánh Marie với cái tháp
nhọn màu xanh lục đang ấp trứng dưới các gác chuông to xụ. Những con bồ
câu đẩy nhau ra khỏi những hốc trên tường tháp và đậu xuống cách tôi
không xa. Chúng líu lô líu lường nói những chuyện nhăng nhít gì với nhau;
chúng hoàn toàn không biết con gà mái còn ấp bao lâu nữa, hoặc cái gì sẽ
nở ra từ đó, hoặc liệu cái cuộc ấp kéo dài bao thế kỷ này có phải chính là
một mục đích tự thân hay không.