cụp xuống chỉ để lộ lòng trắng con ngươi và lẩm nhẩm đọc tên tất cả các
thánh bằng tiếng Kashubes với một giọng lu loa than vãn vì nồi lửa không
chịu bốc và hai thúng khoai tây thì đổ tung tóe.
Bọn đồng phục ở rán lại nửa tiếng đồng hồ, lúc thì đứng cách xa đống
lửa, lúc lại sán đến gẩn. Họ nhằm ống khói xưởng gạch, tính chuyện chiếm
Bissau, rồi quyết định hoãn cuộc tiến công lại và xòe những bàn tay tím tái
trên ngọn lửa cho đến khi bà tôi, vẫn không ngừng thở dài, cho mỗi gã một
củ khoai tây nướng cắm trên đầu que xiên. Nhưng mặc đầu mồm đang bận
nhai, họ vẫn còn rảnh đầu để chợt nhớ ra là mình đang vận đồng phục và
thế là hấp! họ chạy một mạch đến đầu kia cánh đồng cách khoảng một tầm
ném đá, xộc tới bụi kim tước bên rìa con đường trũng khiến một chú thỏ
rừng chạy té ra, song có điều tên chú không phải là Koljaiczek. Họ trở lại
bên đống lửa và những củ khoai bột ấm nóng mùi than hồng và bắt tay vào
công việc hòa bình là xếp trả vào thúng những củ khoai tây mà vừa nãy, cúc
cung tận tụy với nhiệm, vụ, họ đã đổ tung tóe ra đất.
Mãi đến khi buổi chiều ép từ bầu trời ra được một cơn mưa nhỏ chênh
chếch và một hoàng hôn đen như mực, họ mới hối hả, nhưng có phần miễn
cưỡng, rời đi thám sát một cột mốc đằng xa đang chìm dần trong bóng tối.
Hoàn thành nốt nhiệm vụ này là đủ, họ lại duỗi chân duỗi cẳng một chút và
hơ những bàn tay ban phước lên đống lửa đang bị mưa làm lụi dần trong
khói mù. Ho sặc sụa một thôi nữa trong khói xanh, ứa một giọt nước mắt
nữa trong khói vàng, họ cất bước về phía Bissau, vừa ho vừa khóc. Nếu tên
Koljaiczek không còn ở đây thì ắt là hắn đang ở Bissau. Đối với một cảnh
sát thì bao giờ cũng chỉ có hai khả năng mà thôi.
Đám khói mãi không tan bao quanh bà tôi như một cái váy thứ năm rộng
mênh mông, thành thử cả bà tôi cùng những tên thánh bằng thổ ngữ
Kashubes và bốn cái váy bà đang mặc cũng ở dưới váy như Koljaiczek.
Khi bọn đồng phục chỉ còn là những cái chấm lắc lư chìm dần trong
chiều tà giữa những cột điện báo, bà tôi mới từ từ đứng dậy một cách khó