nhọc, như thể bà đã mọc rễ và giờ đây gắng nhổ mình lên khiến đất vụn và
rác rơi lả tả quanh người.
Koljaiczek cảm thấy lành lạnh khi bị phơi ra đột ngột dưới làn mưa. Anh
vội cài lại khuy quần mà nỗi lo sợ cùng nhu cầu tìm kiếm một chỗ nương
náu đã khiến anh cởi ra dưới những lớp váy. Những ngón tay anh làm việc
nhanh thoăn thoắt vì anh sợ của quý của mình mau chóng trở nên buốt giá
trong tiết thu đầy đe dọa.
Bà tôi tìm thấy dưới tro bốn củ khoai tây nóng sốt nữa, Bà cho
Koljaiczek ba, còn một dành cho mình. Trước khi đưa lên miệng cắn, bà
còn hỏi lại một lần nữa anh ta có phải là người xưởng gạch không mặc dầu
bà biết rõ rằng Koljaiczek có thể từ bất cứ nơi nào đến, nhưng không phải
dân làm gạch. Không cần đợi trả lời, bà giao cho anh ta cái thúng nhẹ hơn,
còn mình thì còng lưng dưới cái kia, nặng hơn. Bà còn rảnh một tay để cầm
cái cào và cái cuốc; rồi, với thúng khoai tây, cào và cuốc, bà giong buồm-
bốn-váy xuôi về phía mỏ đá Bissau.
Không phải đích thị Bissau mà hơi chếch về mạn Ramkau. Vậy là họ bỏ
lại xưởng gạch bên tay trái và đi về phía khu rừng đen với Goldkrug ở giữa
và Brennlau phía sau. Ngay trước khu rừng, trong một dải đất trũng, là mỏ
đá Bissau. Joseph Koljaiczek, vẫn thấp bè bè, theo bà tôi đến đó, không
cách chi rời khỏi những cái váy của bà nữa.
Chú thích:
[1] Dân tộc Tây Xlavơ đã Đức hoá sống ở vùng Tây Phổ cũ và Đông Bắc
Pomerania, cho đến năm 1945, khoảng 150.000 người vẫn nói tiếng
Kashuhcs như tiếng mẹ đẻ. Tiếng Kashubes thành một thổ ngữ trung gian
giao tiếp giữa người Ba Lan và người Tây Pomerania. (Tất cả các chú thích
trong cuốn sách này đều của người dịch).