nó đã làm hết sức mình để khỏi vướng chân những người lớn bảo vệ toà nhà
bưu điện.
Khi tôi lên tới tầng hai đằng sau những người khiêng chậm rề rề, thì ra
điều tôi đã ngờ ngợ là đúng: người bị thương được đưa đến cái buồng kho
không cửa sổ do đó hoá an toàn mà tôi đã tự dành cho mình. Vì không có
chiếu nệm chi cả nên người ta quyết định là những giỏ thư, tuy có hơi quá
ngắn, nhưng vẫn có thể cung cấp chỗ nghĩ tương đối thoải mái cho thương
binh. Tôi thấy tiếc là đã đặt cái trống của mình nằm vào một trong những
cái giỏ quần áo di động đầy những thư không chuyển được ấy. Liệu rồi máu
của những bưu tá và nhân viên bưu điện bị thủng da rách thịt có thấm qua
mười hoặc hai mươi lớp giấy và nhuộm cho nó một sắc màu mà cho tới nay
nó chỉ biết dưới hình thức vẹc-ni? Cái trống của tôi thì có gì chung với máu
của Ba Lan? Họ cứ việc lấy máu mình mà nhuộm những hồ sơ và giấy thấm
của họ! Họ cứ việc trút hết xanh từ những bình mực của họ ra rồi lại đổ đầy
đỏ vào! Họ cứ việc nhuộm đỗ một nửa những chiếc mu-soa và sơ-mi trắng
hồ cứng của họ rồi biến chúng thành cờ Ba Lan! Nói cho cùng, họ quan tâm
đến Ba Lan, chứ thiết gì cái trống của tôi! Nếu họ nhất quyết rằng Ba Lan,
dẫu có mất, vẫn phải nguyên vẹn hai màu trắng-đỏ, thì đó có phải là lý do
để cái trống của tôi, bị lớp màu mới nhuộm biến thành khả nghi, cũng phải
đi tong như vậy?
Một ý nghĩ dần dần bắt rễ trong tôi: vấn đề không phải là Ba Lan, mà là ở
như cái trống của tôi đây. Jan đã kéo tôi đến toà nhà bưu điện này cốt để
đem lại cho các đồng nghiệp (đối với họ, Ba Lan chưa đủ là động lực tập
hợp mạnh mẽ) một ngọn cờ khiến nhuệ khí của họ bùng cháy. Đêm hôm ấy,
trong khi tôi ngủ trong một chiếc giỏ quần áo trên bánh xe lăn, tuy tôi
không lăn cũng chẳng mơ mộng gì, những nhân viên bưu điện không ngủ
đã thì thào với nhau rằng: Một cái trống đồ chơi hấp hối đã tìm đến nương
náu nơi chúng ta. Chúng ta, những người Ba Lan, chúng ta phải bảo vệ nó,
nhất là vì Anh và Pháp đã ký hiệp ước tương trợ với chúng ta.