điều gì. Người tình của mẹ tôi thì bận bịu với nỗi sợ choán đầy tâm trí đến
nỗi những cử chỉ khẩn cầu của tôi không cố tác động nào khác ngoài việc
làm tăng nỗi sợ ấy. Oskar những muốn thét vào mặt ông, nhưng sợ làm
phân tán Kobyella lúc này dường như chỉ biết đến cây súng trường của
mình.
Và như thế, tôi nằm xuống cạnh Jan, đằng sau những bao cát và áp sát
vào người bác, hy vọng truyền một phần cái chất tỉnh bơ thường ngày của
mình cho ông bác và có thể là bố. Một lúc sau, ông có vẻ bình tĩnh hơn.
Bằng cách thở đều đặn đến mức tối da, tôi truyền cho mạch ông một nhịp
gần như đều đều. Nhưng khi tôi thử một lần nữa - tôi phải công nhận là hơi
quá sớm - lôi kéo sự chú ý của ông vào cái trống của Naczalnik-con bằng
cách nhẹ nhàng xoay đầu ông từ từ nhưng kiên quyết về phía cái tủ, thì ông
vân không hiểu ra tôi muốn cái gì. Nỗi sợ xâm nhập ông bằng đường chân,
dâng lên tràn khắp người, rồi lại rút xuống, nhưng không thoát ra được, có
lẽ vì đế giày của ông bao giờ cũng có miếng lót tăng cường nên nó quay trở
lại xâm chiếm dạ dày, lá lách, gan, xông lên đầu và bành trướng mạnh mẽ
đến nỗi đôi mắt xanh của ông trố ra khỏi hốc mắt và lòng trắng vằn lên
những tia máu, điều mà trước đây, Oskar chưa bao giờ có dịp quan sát thấy
nơi mắt ông bác.
Tôi phải cố gắng hồi lâu mới hồi chỉnh mắt bác tôi lại như cũ và làm cho
tim bác ổn định một chút. Nhưng mọi nỗ lực có tính chất thẩm mỹ của tôi
đều đổ xuống sông xuống biển khi bọn cảnh vệ bắt đầu bắn loại súng phóng
không giật đã chiến của chúng và, với một độ chính xác chứng tỏ chất
lượng rèn tập cao, san bằng cái hàng rào sắt trước cửa tòa nhà bằng cách lần
lượt bắn tan các trụ gạch mà nó bám vào. Chắc phải có đến mười lăm-hai
mươi trụ gạch như thế và mỗi lần một trụ đổ, ông bác tội nghiệp của tôi lại
đau nhói cả trái tim lẫn linh hồn, như thể không phải chỉ là những cái bệ bị
bắn nát thành bụi, mà cùng với chúng là những pho tượng tưởng tượng của
những vị thần tưởng tượng quen thuộc với bác và cần thiết cho sự tồn tại
của bác.