luôn vùi đầu vào những quyển sách kỳ quái, phát hiện ở từng câu trong đó
sự xác nhận những mục tiêu chinh trị của Mẹ Chúa Trời và để mặc em gái
trông coi trang trại cùng mấy mẫu đất. Jan, con trai ông, bấy giờ mới bốn
tuổi, là một đứa bé ốm yếu, lúc nào cũng chực khóc; Jan chăn ngỗng, tích
cóp ảnh màu và, ôi chao, quả là điềm báo trước! mới nứt mắt đã sưu tầm
tem thư.
Bà tôi đưa Koljaiczek cùng những thúng khoai tây về cái trang trại một
lòng một dạ với Đức Mẹ Nữ Hòang Ba Lan ấy. Sau khi biết chuyện gì đã
xẩy ra, ông Vincent liền chạy đến Ramkau kèo nèo cha xứ kỳ đến khi ông
này đành phải đến làm lễ cưới cho Joseph và Anna. Vị linh mục ngái ngủ
vừa mới ngáp ngắn ngáp dài ban phước xong và quay cái lưng giáo chức
của mình ra về cùng với một lườn thịt lợn sấy hậu hĩ, là Vincent lập tức
đóng ngựa vào chiếc xe hòm, xếp đôi vợ chồng mới lên chiếc ổ rơm lót bao
tải, đặt thằng cu Jan run cầm cập và rấm rứt khóc bên cạnh mình trên ghế
lái và ra hiệu lệnh cho ngựa thẳng tiến vào đêm tối: chuyến đi tân hôn đang
hồi khẩn trương.
Khi xe tới cảng bốc gỗ của thị xã, đêm đã tàn nhưng trời vẫn còn tối.
Những người bạn, cũng dân chở bè như Koljaiczek, đón cặp uyên ương trên
đường trốn chạy.
Vincent đánh xe lộn lại và cho ngựa đi về hướng Bissau: một chị bò cái,
một ả dê, một mụ nái sề với lũ lợn con, tám con ngỗng và chú chó canh
đang chờ thức ăn, chưa kể cu Jan đang hâm hấp sốt cần một cái giường
nằm.
Joseph Koljaiczek lặn biệt ba tuần, đủ để nuôi một bộ tóc mới có đường
rẽ ngôi; ông cạo nhẵn ria xoay giấy tờ căn cước mới sạch trơn không vết
bợn và kiếm được một chân đi bè dưới cái tên Joseph Wranka. Nhưng tại
sao Koljaiczek lại phải lấy giấy tờ căn cước của gã đi bè Wranka đã bị đánh
ngã nhào khỏi bè trong một cuộc ẩu đả và chết đuối ở sông Bug vào quãng
trên Modlin một tí mà nhà chức trách không hề hay biết? Bởi lẽ sau một