Xe chúng tôi chuyển bánh trong tiếng chuông rung inh ỏi và chiếc xe kia
che khuất tầm nhìn của chúng tôi. Lúc vượt qua toa moóc của nó, đầu tôi tự
động quay ngoắt và toàn bộ khu nghĩa trang đổ nát ùa vào mắt tôi, cả một
phần bức tường phía hắc nữa; cái mảng quét vôi trắng nằm trong bóng tối,
nhưng nó vẫn trắng nhức nhối...
Rồi khu nghĩa trang lùi lại sau, chúng tôi tới gần Brösen và một lần nữa
tôi nhìn Maria. Nàng mặc một chiếc áo hoa mỏng mùa hè. Quanh cái cổ
tròn với nước da anh ánh, nàng đeo một sợi dây chuyền gồm những trái anh
đào gỗ bằng nhau chằn chặn, nom như chín mọng. Tôi tưởng tượng hay tôi
thực sự ngửi thấy? Maria như mang cái mùi va-ni theo nàng đến biển
Baltic. Oskar hơi cúi về đằng trước, hít thật sâu cái mùi ấy và lập tức chế
ngự được mùi thây ma Jan Bronski. Cuộc phòng thủ sở Bưu Chính Ba Lan
đã lùi vào lịch sử ngay cả trước khi thịt da của những người phòng thủ rã
khỏi xương. Oskar, kẻ sống sót, giờ có trong lỗ mũi những mùi khác hẳn
mùi của người cha-khả-thể của nó, xưa hào hoa phong nhã là thế mà nay đã
thành cát bụi.
Đến Brösen, Maria mua một "pao" anh đào, nắm tay tôi - nàng biết chỉ
mình nàng mới được phép làm thế - và dắt tôi qua những rừng thông đến
nhà quản lý bãi tắm. Mặc dầu tôi đã gần mười sáu tuổi - người phụ trách
đâu có thấy thấy điều đó - tôi vẫn được phép vào khu nữ. Nước: 18; không
khí: 80; gió: đông; dự báo: trời đẹp - một tấm bảng đen ghi vậy. Cạnh đó là
một tấm áp-phích giới thiệu phương pháp hô hấp nhân tạo: các nạn nhân
mặc đồ tắm kẻ xọc, những người cứu nạn có ria mép, những chiếc mũ rơm
lềnh bềnh trên làn nước hung dữ, phản trắc.
Cô phục vụ chân đi đất tiến tới. Như một kẻ sám hối, cổ ta buộc quanh
mình một sợi thừng đeo lủng lắng chiếc chìa khoá to tướng mở tất cả các
cửa ca- bin. Những ván gỗ bắc cầu. Tay vịn. Dọc theo các ca-bin, một tấm
thảm dài bằng xơ dừa. Chúng tôi được ca-bin số 53. Vách gỗ ca-bin khô,