sổ, ánh ngày làm nổi rõ những dải sáng trong đó xoáy lộn những hạt bụi.
Phần lớn các máy nhạc và tạp âm của Greff chìm trong khoảng nhập
nhoạng tối, trừ một vài chi tiết: một cái chuông nhỏ, một thanh gỗ chống,
phần dưới của cái máy đánh trống, với những củ khoai tây được giữ ở thế
cân bằng.
Khoang cửa sập dẫn xuống hầm, y hệt như ở cửa hàng chúng tôi, cũng để
ngỏ. Cánh cửa bằng gỗ ván không có gì chống, chắc bà Greff đã mỏ toang
trong cơn vội vã cuống cuồng la hét; bà cũng chẳng cái cái móc vào chốt
gắn ở quầy. Chỉ cần đẩy khẽ một cái là Oskar có thể sập nó xuống và đóng
hầm lại.
Tôi đứng sững không động đậy đằng sau ván cửa ấy, hít cái mùi bụi và
mốc của nó, trân trân nhìn cái hình chữ nhật sáng loáng đóng khung một
phần cầu thang và một mảng sàn hầm lát bê-tông. Trong hình chữ nhật ấy,
từ mép trên bên phải, nhô ra một phần của một cái bục có bậc để bước lên,
rành là Greff mới mua gần đây thôi, vì những lần trước xuống hầm, tôi
không hề thấy. Nhưng nếu chỉ vì một cái bục thì ắt hẳn Oskar đã chẳng nhìn
lâu và chăm chú đến thế; điều thu hút sự chú ý của nó nằm ở góc bên phải
phía trên của hình ảnh: hai chiếc tất len xỏ trong đôi giày đen thắt dây, bị
thu ngắn lại một cách kỳ lạ do nhìn từ đằng trước trở lại. Tuy không nhìn
thấy đế, tôi vẫn biết ngay đó là đôi giày bộ hành của Greff.
Đó không thể là Greff đang đứng trong hầm, sẵn sàng khởi đầu một cuộc
dạo bộ, tôi nghĩ thầm, bởi vì đôi giày không chạm đất mà lại lủng lẳng
trong không trung, ngay bên trên cái bục gỗ, mặc dù có thể là những mũi
giày chĩa xuống phía dưới còn hơi chạm ván bục, chút xíu thôi, nhưng vẫn
là chạm. Trong một thoáng, tôi hình dung ra một ông Greff trong tư thế
kiễng chân, một bài tập ngộ nghĩnh và căng thắng, nhưng hoàn toàn có thể
chờ đợi ở nhà lực sĩ yêu thiên nhiên này.
Để kiểm định giả thuyết này, có nghĩa, nếu đúng là như vậy, để có dịp
cười giễu ông chủ hiệu rau quả một mẻ, tôi rón rén bước xuống những bậc