từ trung sĩ Lankes, bậc thày của nghệ thuật "bê-tông"; chúng ta sẽ còn gặp
lại anh ta ở đoạn kể về thời kỳ hậu chiến và cao trào của tiện nghi tư sản.
Chiếc xe tải bọc thép vẫn chờ chúng tôi trên lối đi dạo dọc biển. Trung uý
Herzog sải những bước dài quay lại chỗ cấp dưới của mình và hổn hển xin
lỗi Bebra về "sự cố nho nhỏ" vừa xảy ra; tuy nhiên, y nói thêm rằng bãi
biển là khu vực cấm dân thường và nhấn mạnh: "Khu vực cấm là khu vực
cấm". Y đỡ các nữ khách lên xe, dặn dò tài xế và chúng tôi trở về Bavent.
Chúng tôi phải khẩn trương, không còn thì giờ ăn trưa, vì hai giờ chiều,
chúng tôi có buổi diễn ở cái lâu đài nhỏ mỹ lệ vùng Normandie náu giữa
những hàng dương ở bìa làng.
Chúng tôi chỉ có không đây nửa tiếng đồng hồ để thử ánh sáng. Sau đó,
Oskar dóng một hồi trống hùng tráng mở màn. Chúng tôi biêu diễn cho một
cử tọa gồm toàn lính. Chúng tôi cường điệu, không ngớt khuấy lên những
nhịp cười sảng khoái. Tôi phóng giọng hát vào một cái bô đái bằng thuỷ
tinh trong đựng một cặp xúc xích với mù-tạc. Bebra, nhem nhuốc dầu sơn
trắng, tuôn những giọt nước mắt hề xiếc trên cái bô vỡ, bới đôi xúc xích từ
những mảnh thuỷ tinh, quệt mù-tạc lên và ăn ngấu nghiên, khiến đám người
mặc quân phục màu xám dã chiến được một mẻ cười hoan hỉ. Felix và Kitty
ít lâu nay đâm quen xuất hiện trong trang phục ‘sóóc’ da và mũ Tyrol, mang
lại cho tiết mục của họ một nét đặc sắc. Roswitha mặc một chiếc áo dài kim
tuyến bó sát người, tay đi găng dài màu xanh nhạt, đôi chân nhỏ xíu xỏ
trong đôi giày cao gót thêu vàng. Cặp mí mắt xanh khép hờ cùng cái giọng
Địa Trung Hải ngái ngủ của nàng vẫn phát huy ma lực mê hoặc của chúng.
Oskar thì khỏi cần trang phục đặc biệt - không biết tôi đã nói điều này chưa
nhỉ? Tôi vẫn đội cái mũ lính thuỷ cũ in nhãn S.M.S. Seydlitz, mặc chiếc sơ-
mi xanh nước biển và chiếc va-rơi khuy vàng chạm hình mỏ neo; dưới nữa
là cái quần cộc đến đầu gối, đôi tất cuộn thò trên đôi ủng rất tã. Quàng qua
cổ, là cái trống hai màu trắng và đỏ, nó rất yên tâm vì biết mình còn năm
đứa em trong hành trang của tôi.