tôi không bao giờ ra khỏi căn hộ của Mamăng Truczinski. Phương pháp đó
dẫn chúng tôi đến vũ khí bí mật. Tôi đứng ở phòng ngủ của mình, phóng
giọng tới một tầm xa chưa từng thấy, nhằm vào vào những cửa sổ tận đầu
đằng kia thành phố. Tôi huỷ diệt kính cửa của nhiều trụ sở Đảng, một
xưởng in in các tem và thẻ phân phối lương thực-thực phẩm và một lần,
miễn cưỡng chiều theo yêu cầu của các chiến hữu, phá tan những cửa sổ
bếp của nhà một tay hiệu trưởng trường trung học đã xúc phạm họ.
Đó là vào tháng 11. Trong khi các rốc-két V-1 và V-2 bay sang Anh quốc,
thì giọng tôi bay cao trên Langfuhr, dọc theo những hàng cây ở đại lộ
Hindenburg, vượt qua Nhà ga Trung tâm và Khu phố cổ, tìm đến Viện Bảo
tàng ở phố Hàng Thịt. Tôi đã lệnh cho quân của tôi vào đó kiếm bức tượng
gỗ Niobe.
Họ kiếm không ra. ở phòng bên, Mamăng ngồi bất động, chỉ có cái đầu
hơi lúc lắc. Cách nào đó, chúng tôi có một cái gì chung, bởi vì trong khi
Oskar đang hát tầm xa thì bà bận bịu với những ý nghĩ tầm xa. Bà sục sạo
Thiên đường của Chúa tìm con trai Herbert và chiến tuyến của Quân khu
Trung tâm tìm con trai Fritz. Bà còn phải bay đến một nơi xa khác tìm con
gái cả Guste lấy chồng hồi đầu năm 1944, rồi theo chồng về tít tận
Düsseldorf vì đó là quê của trưởng bồi bàn Köster, mặc dù anh này phần
lớn thời gian phải ở Courland. Guste chỉ được ở bên chồng cho quen hơi
bén tiếng trong vỏn vẹn có hai tuần khi anh về phép.
Đó là những tối bình yên. Oskar ngồi dưới chân Mamăng Truczinski, ứng
tấu một đoạn trên trống, lấy một quả táo nướng trong bếp lò rồi mang cái
quả nhăn nhúm dành cho bà già và trẻ con ấy vào phòng ngủ. Gã nhấc lớp
giấy che sáng phòng không ra, mở hé cửa sổ, để cho một chút đêm băng giá
lọt vào, rồi nhằm mục tiêu và bắt đầu phóng giọng hát tầm xa. Gã không
nhằm các vì sao, dải Ngân Hà không phải là đường đi của gã. Tiếng hát của
gã hướng tới Quảng trường Winterfeld, không nhắm vào Đài Phát thanh,
mà vào cái nhà hộp dùng làm trụ sở Quận của Đoàn Thanh niên Hitler.