nước. Họ ngồi trên hàng ghế nhân chứng, quyết một lòng thưởng thức vụ án
của tôi.
Nhưng tôi quay đằng sau, bóp nghẹt những con én non trong nách tôi,
giẫm bẹp cặp nhím phủ nhau dưới gan bàn chân tôi, bỏ chết đói lũ mèo con
xám trong các khớp gối tôi. Coi khinh cái thú nhảy cầu, tôi bước những
bước cứng ngắc đến lan can, bắt đầu xuống thang và mỗi bậc thang lại củng
cố thêm trong tôi niềm tin rằng người ta có thể không chỉ leo lên những
tháp nhảy cầu mà còn tụt xuống mà không cần nhảy.
Bên dưới, Maria và Matzerath đang đợi tôi. Cha Wiehnke ban phước cho
tôi mặc dù tôi không yêu cầu. Gretchen Scheffller mang đến cho tôi một cái
áo măng-tô nhỏ và ít bánh ngọt. Kurt đã lớn và không chịu nhận tôi là bố
hoặc anh cùng cha khác mẹ. Bà ngoại Koljaiczek của tôi khoác tay ông anh
Vincent, ông lão này hiểu biết thế giới và nói chuyện chẳng đâu vào đâu.
Trong khi chúng tôi rời toà án, một quan chức mặc đồ dân sự lại gần
Matzerath, đưa cho ông một tờ giấy và nói: "Ông cần phải suy nghĩ về
chuyện này, ông Matzerath. Thằng bé cần được cách ly khỏi đường phố.
Ông thấy đấy, nó yếu đuối và khờ dại, lúc nào cũng có thể bị những phần tử
bất hảo lợi dụng."
Maria khóc và đưa cho tôi cái trống mà Cha Wiehnke đã lo bảo quản
trong thời gian xử án. Chúng tôi đi đến bến xe điện cạnh Ga trung tâm.
Matzerath bế tôi đi nốt quãng đường cuối. Tôi ngoái nhìn qua vai ông, tìm
trong đám đông một khuôn mặt tam giác, tự hỏi thầm: cả cô ta nữa, liệu cô
ta có phải leo lên tháp và nhảy, sau Störtebeker và Moorkähne không? Hay
cũng như tôi, cô ta đã chọn cái khả năng tụt xuống thang?
Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa bỏ được cái thói quen đảo mắt quanh
phố xá hoặc những nơi công cộng tìm một thiếu nữ gày gò, không xinh mà
cũng chẳng xấu, nhưng luôn luôn cắn đàn ông. Ngay cả khi nằm trên
giường của bệnh viện tâm thần này, tôi vẫn hoảng hốt mỗi khi Bruno báo có