khùng của mình thành hành động đập nát thuỷ tinh nhưng dạo ấy, không ai
thấy tôi dùng đến chổi và xẻng hót bụi bao giờ!
Sau khi xoá bỏ những dấu vết cơn lôi đình của mình, Zeidler lại ngồi
xuống. Một lần nữa, Oskar chìa tờ khai đăng ký mà Con Nhím đã buộc phải
vứt xuống cho rảnh cả hai tay để xử lý đám ly uống rượu.
Zeidler ký vào tờ khai và nói cho tôi hiểu rằng ông muốn trật tự phải ngự
trị trong căn hộ của ông, nếu ai muốn làm gì tuỳ thích thì sẽ đi đến đâu, ông
thừa kinh nghiệm để biết. Phải, ông đã làm công việc chào hàng mười lăm
năm nay cho một hãng tông-đơ1, tôi có biết tông-đơ là cái gì không?
Oskar làm mấy động tác qua đó, Zeidler kết luận rằng tôi có đủ thông tin
về vấn đề tông-đơ. Mái tóc "cua" húi rất gọn của Zeidler đủ đảm bảo độ tin
cậy của mặt hàng, cũng như tính hiệu quả của ông với tư cách người chào
hàng, Sau khi giải thích cho tôi về thời gian biểu của mình - một tuần trên
dường, một tuần ở nhà - ông không quan tâm gì đến Oskar nữa. Càng giống
nhím hơn bao giờ hết, ông ngồi đu đưa trong chiếc ghế da nâu nhạt kẽo kẹt,
mắt kính lấp lánh, và vì một lý do nào đó hoặc chẳng vì gì cả, ông lầm rầm:
yayayaya. Đã đến lúc tôi phải đi khỏi.
Trước hết, Oskar cáo từ bà Zeidler. Tay bà lạnh, mềm nhũn như không
xương nhưng khô. Từ ghế của mình, Con Nhím vung tay ra hiệu cho tôi đi
ra cửa, nơi Oskar để đồ lề tư trang. Tôi đã xách mọi thứ lên, thì tiếng ông
vang đến: "Cậu có cái gì buộc vào va-li thế?"
"Đó là cái trống của tôi."
" Cậu tính chơi trống ở đây ư? "
"Không nhất thiết. Dạo xưa, tôi chơi thường xuyên."
"Riêng với tôi thì chả sao, cậu cứ việc chơi, vả lại, tôi vắng nhà suốt ấy
mà."