đo đạc mà Lankes ném theo và vừa đi khỏi vừa lầm bầm rủa, gọi hồn mọi
bóng ma lịch sử bị Lankes vứt bỏ coi là passé.
‘Hắn tuy là một thằng điên nhưng không phải hoàn toàn không có lý,”
Lankes nói. “Nếu bọn này không quá say xỉn khi bắt đầu nổ súng thì chưa
biết chuyện gì sẻ xảy ra với bọn lính Canada kia.”
Tôi chỉ còn biết gật đầu đồng tình: ngay ngày hôm trước, tôi đã vớ được
trong một cái mai cua rỗng một bằng chứng lịch sử hùng hồn - một chiếc
khuy từ một bộ quân phục Canada. Mừng như bắt được một đồng tiền cổ
quý hiếm, Oskar cất biến chiếc khuy vào trong ví.
Mặc dù ngắn ngủi, cuộc đến thăm của trung uý Herzog đã gợi lại nhiều
kỷ niệm. “Cậu có nhớ không, Lankes, khi đoàn văn công của bọn mình đến
thăm công sự bê-tông của cậu, chúng ta đã cùng ăn điểm tâm trên nóc lô-
cốt? Gío thổi nhè nhẹ, y như hôm nay. Và đột nhiên, có sáu, bảy nữ tu sĩ đi
bắt cua giữa đám “măng tây Rommel” và cậu được lệnh phải “dọn sạch”
bãi biển và cậu đã chấp hành bằng một cây súng máy.”
Phải, Lankes nhớ (y vẫn mút xương). Thậm chí y còn nhớ tên nhiều
người trong đó: Xơ Scholastica, Xơ Agneta... y mô tả cô nữ tu mới có
khuôn mặt hồng hào nhỏ nhắn với rất nhiều đen bao quanh. Bức chân dung
y dựng lên sinh động đến nỗi nó che lấp một phần - nhưng chỉ một phần
thôi - hình ảnh, luôn hiện diện trong trí tôi, của một nữ y tá và nữ tu không
thuộc cộng đồng giáo sĩ: Xơ Dorothea của tôi. Mấy phút sau - tôi chưa ngạc
nhiên đến mức gọi đây là một phép mầu - một nữ tu sĩ trẻ từ mạn Cabourg
băng qua các cồn cát đi về phía chúng tôi. Khuôn mặt hồng nhỏ nhắn với
rất nhiều đen bao quanh, không cách nào lẫn được.
Nàng che nắng bằng một chiếc dù đen giống như loại các ông già thường
mang. Cong cong phía trên mắt nàng một vành lưỡi trai bằng xe-lu-lô-ít
màu xanh dữ dằn như kiểu các đạo diễn phim ở Hollywood thường mang.