Tôi không hỏi đến ông thày Bebra và thậm chí đã từ bỏ mọi hy vọng gặp
lại ông. Nhưng ít bữa sau, Ts Dösch báo cho tôi là Bebra đang đợi tôi.
Cuộc gặp gỡ thứ hai của tôi với ông thày hoàn toàn khác lần trước. Lần
này, Oskar không phải đứng trước cái mặt bàn gỗ sồi. Thay vì, tôi ngồi
trong một chiếc xe lăn chạy bằng mô-tơ điện được đặt theo kích cỡ của
Oskar. Ts Dösch đã thu băng những tường thuật, bình luận của báo chí về
chuyến lưu diễn của tôi và mở máy cho Bebra và tôi cùng nghe. Bebra có
vẻ hài lòng. Riêng tôi, những lời tâng bốc của báo chí làm tôi bối rối. Họ
dựng tôi thành thần tượng, Oskar cùng cái trống của gã đã trở thành người
chữa trị cho cả thể xác lẫn tâm hồn. Và điều chúng tôi chữa giỏi nhất là
bệnh mất trí nhớ. Thuật ngữ “chủ nghĩa Oskar” xuất hiện lần đầu tiên và, tôi
lấy làm tiếc mà thưa, còn trở đi trở lại nhiều lần nữa.
Sau đó, cô áo thun xanh mang trà đến cho tôi và đặt hai viên thuốc lên
lưỡi ông thày tôi. Chúng tôi trò chuyện, ông thôi không đóng vai người
buộc tội tôi nữa. Lại như bao năm trước ở tiệm cà-phê Bốn Mùa, chỉ khác
cái là thiếu signora Roswitha của chúng tôi. Khi tôi không thể không nhận
ra là Thày Bebra đã ngủ giữa chừng một câu chuyện dài về quá khứ của tôi,
tôi bèn bỏ ra mươi mười lăm phút chơi với chiếc xe lăn của mình, vặn mô-
tơ chạy ro ro, băng qua sàn, lượn trái lượn phải. Tôi phải khó khăn mới rời
bỏ được cái đồ vật đặc sắc này, những khả năng vô tận của nó đem lại cơ
hội cho một tật xấu vô hại.
Chuyến lưu diễn thứ hai của tôi rơi vào mùa Vọng trước Giáng Sinh. Tôi
dựa theo đó lập chương trình cho phù hợp và được báo chí tôn giáo, Thiên
Chúa cũng như Tin Lành, ca ngợi hết lời. Quả vậy, tôi đã biến dược những
kẻ lầm lỗi thâm căn cố đế thành một bày trẻ hát những bài thánh ca Giáng
Sinh bằng một giọng xúc động, đầy nước mắt. “Jêxu, con sống vì Người;
Jêxu, con chết vì Người,” lời hát cất lên từ hai nghìn rưởi tâm hồn già nua
mà không ai ngờ còn có được những biểu hiện ngây thơ con trẻ hoặc nhiệt
thành tôn giáo như vậy.