hoặc cầu nguyện trước bình trước khi biểu diễn. Nhưng sau khi xuất hiện
trước công chúng và sau một bữa tối linh đình kéo dài, chúng tôi rút về
phòng khách sạn, bấy giờ y mới đánh trống và cầu nguyện trong khi tôi hỏi
và ghi chép; sau đó, chúng tôi so sánh đối chiếu với những bài cầu nguyện
của những ngày trước và tuần trước. Những bài cầu nguyện thay đổi về độ
dài. Đôi khi lời chữ va nhau chan chát; vào những hôm khác, nhịp điệu lại
trôi chầm chậm, gần như suy tưởng. Tuy nhiên, những bài cầu nguyện tôi
gom được (mà tôi sẽ kèm theo để trình quý Toà) không chứa thông tin gì
nhiều hơn bản ghi đầu tiên mà tôi gộp vào lời khai này.
Trong năm ấy, giữa những chuyến lưu diễn, tôi đã làm quen sơ sơ với
một số bạn bè và bà con của Matzerath. Tôi đã gặp mẹ kế của y, bà Maria
Matzerath, mà bị cáo tôn thờ tuy có phần kiềm chế. Cũng trong buổi chiều
hôm ấy, tôi làm quen với Kurt Matzerath, em cùng cha khác mẹ của bị cáo,
một chú bé mười một tuổi có giáo dục. Bà Augusta Köster, chị gái bà Maria
Matzerath, cũng gây ấn tượng tốt dối với tôi. Như lời bị cáo tâm sự với tôi,
quan hệ của y với gia đình trong những năm hậu chiến đầu tiên, còn trên cả
mức căng thắng. Mãi đến khi Matzerath giúp mẹ kế của mình mở một cửa
hàng đặc sản lớn bán cả các loại quả nhiệt đới và thường xuyên trợ giúp tài
chính mỗi khi gặp khó khăn trong kinh doanh, quan hệ giữa họ mới trở nên
thực sự hữu hảo.
Matzerath cũng giới thiệu với tôi một số dồng nghiệp cũ của y, phần lớn
là nhạc công jazz. Mặc dù thấy ông Munzer, mà bị cáo gọi một cách thân
mật là Klepp, thuộc “tip” người vui vẻ, dễ thương, cho đến nay, tôi vẫn
chưa đủ mong muốn hoặc nghị lực để phát triển mối quan hệ ấy.
Mặc dầu, nhờ sự rộng rãi của bị cáo, trong thời gian ấy, tôi không cần
hành nghề chính của mình, lòng yêu nghề vẫn khiến tôi tranh thủ, giữa hai
chuyến lưu diễn, trang trí một vài mặt cửa hàng. Bị cáo quan tâm đến công
việc của tôi với tình bằng hữu. Nhiều khi, đêm đã khuya, y vẫn đứng ngoài
phố, xem tôi thi thố chút tài mọn. Thỉnh thoảng, công việc xong xuôi,