64/71
ĐAN ĐIỀN TAM KHAI HỢP
(ba lần đóng mở tại Đan điền): Hai tay
đưa lên ngang nhau phía trước bụng,
hai bàn tay đối nhau. Thở ra trong khi
từ từ kéo hai bàn tay lại gần nhau
cho đến khi cách nhau khoảng 20cm
(H.3). Hít vào trong khi từ từ đẩy hai
bàn tay ra xa đến vừa khỏi hai bên
thân, hai bàn tay vẫn ngang nhau
và đối nhau. Lập lại động tác hít thở
cùng với kéo vàođẩy ra giữa hai bàn
tay 3 lần. Trong khi hít thở hãy tập
trung "lắng nghe" cảm giác tê, nặng hoặc ấm nóng ở các ngón tay hoặc lực hút nhau
giữa hai lòng bàn tay. Đó chính là biểu hiện của khí, thường được gọi là khí cảm. Sau 3
lần thở ra hít vào, đưa hai tay trở về vị thế ban đầu dọc hai bên thân. Thở tự nhiên. Đan
điền tam khai hợp có thể kích hoạt khí ở Đan điền vận hành, tăng cường lưu thông khí
huyết giúp phát huy tác dụng của ngủ tâm tương ứng ở phần sau.
NGỦ TÂM TƯƠNG ỨNG: Đứng tùng tỉnh tự nhiên như ở tư thế dự bị. Hai bàn
tay tựa nhẹ vào hai bên hông, bàn tay hơi chếch về phía trước, các ngón tay hơi chút
xuống. Thở tự nhiên. Dùng ý quán tưởng hai huyệt Lao cung ở lòng bàn tay thông
xuống hai huyệt Dũng tuyền ở hai lòng bàn chân (H.4). Huyệt Lao cung bên phải
thông với Dũng tuyền bên phải. Huyệt Lao cung bên trái thông với huyệt Dũng tuyền
bên trái. Mỗi lần thực hành từ 15 phút trở lên.
THU CÔNG: Khởi ý niệm thu công. Giữ nguyên thế đứng buông lõng tự nhiên.
Hai bàn tay thu lại để ngữa trước bụng dưới, các ngón tay đối nhau, cách nhau khoảng
3cm. Từ từ nâng hai bàn tay lên, hít vào. Khi lên đến gần ngang vai thì lật hai bàn tay
úp lại và từ từ đưa hai bàn tay xuống dần đến quá rốn, thở ra đồng thời quán khí toàn
thân trở về Đan điền (H.5). Làm liên tiếp 3 lần.
LƯU Ý:
Một số người chưa quen ngồi thiền, không quen "thủ ý" có thể cảm thấy khó khăn
khi quán ngủ tâm tương ứng vì ở công pháp nầy có vẽ như có đến 4 điểm cần thủ ý. Vì
có đến 4 điểm nên phương pháp nầy thiên về quán tưởng hơn là thủ ý. Quán tưởng cần
liên tục để bài trừ tạp niệm nhưng không quá tập trung để tinh thần được thoải mái.
Quán tưởng một bông hoa đẹp, một đồng cỏ xanh, một bãi biển nhấp nhô sóng
nướccũng là một đặc điểm của Trạm trang công. Ở đây là quán cảnh 2 luồng khí từ hai
huyệt Lao cung thông xuống hai huyệt Dũng tuyền. Trường hợp nầy người tập có thể
làm quen với một bên trước. Khi đã quen với mỗi bên sẽ quán tưởng cùng lúc cả hai
bên.
Hai cương lĩnh quan trọng của công pháp nầy là tùng tĩnhvà ngủ tâm tương
ứng. Do đó có thể thay tư thế đứng bằng tư thế ngồi trên ghế, hai chân chạm đất miễn
sao bảo đảm được yêu cầu buông lõng, thu vai, lưng thẳng, bụng hơi thót lại (H.6).
Cũng vì lẽ nầy người tập có thể tự điều chỉnh vị thế của bàn tay. Nếu ở tư thế đứng cùi
tay có thể tựa thành ghế (H.7), nếu ngồi cùi tay có thể chạm đầu gối hoặc tựa vàohai
bên đùi; bàn tay có thể xê dịch qua lại, lên xuống hoặc hơi nghiêng sao cho bảo đảm