CẨM NANG DƯỠNG SINH THÔNG KINH LẠC - Trang 66

66/71

huyệt ở vị trí 1/3 trước của đường thẳng đi dọc qua gan bàn chân, có tác dụng kích
thích, nâng cao chính khí của thận tạng. Thường được chỉ định chữa các bệnh như trúng
phong (tai biến mạch máu não), cao huyết áp, mất ngủ, động kinh, bệnh tâm thần, nhức
đỉnh đầu... Kinh nghiệm của tiền nhân cho thấy có thể ôn châm hoặc cứu huyệt vị này
và phối hợp với một số các huyệt khác để nâng cao hiệu quả chữa bệnh.

Phương thuốc chủ yếu: Thường dùng quả chín hay phơi khô của cây ngô thù du

(Eyodia rutaearpa (Juss) Benth) để làm thuốc. Tại Trung Quốc thù du có ở nhiều nơi,
nhưng mọc ở đất Ngô thì tốt hơn nên người xưa gọi ngô thù du để phân biệt thù du ở
các địa phương khác. Hiện nay, chúng ta còn phải nhập vị thuốc này. Nhưng theo GS.
Ðỗ Tất Lợi, thù du đã được phát hiện ở Hà Giang nước ta, nhân dân vùng này gọi là cây
xà lạp, dùng chữa đau bụng, nóng sốt... Theo Ðông y, ngô thù du có vị cay đắng, tính
ôn, hơi độc; Vào 4 kinh can, thận, tỳ và vị. Dân gian thường dùng để chữa chứng ăn
uống không tiêu, nôn mửa, đau bụng, cước khí, tiêu chảy, đau đầu. Còn được dùng điều
trị một số trường hợp khác như đau nhức mình mẩy, chân lưng yếu, đau răng, lở ngứa...
Liều dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc hoặc 1-3g dưới dạng thuốc bột, chia 3-4 lần uống
trong ngày. Tài liệu cổ có nêu, nếu không phải hàn thấp chớ nên dùng.

Theo y học hiện đại, ngô thù du có chứa những hoạt chất như tinh dầu và một số

alkaloid như evodiamin, rutacaecacpin, wuchuyin... Chất rutacaecacpin khi bị phân giải
sẽ cho rutamin có cấu trúc hóa học là indol etylamin (Ðỗ Tất Lợi). Tác dụng sinh học
trên tim mạch đã được chứng minh có tác động đến huyết áp.

PHƯƠNG PHÁP DÁN THUC

Ngô thù du đem giã nhỏ mịn, trộn với dấm thanh thành dạng hồ đặc, dùng lá tươi

(lá chuối, lá bàng, lá sen...) cắt thành miếng nhỏ 7 x 7 cm, phết ngô thù du thành một
lớp mỏng trên mặt lá. Ðắp lá thuốc nói trên vào huyệt dũng tuyền. Sau đó dùng băng
vải hoặc băng dính cố định lại miếng cao thuốc, ngày đắp 1 lần. Nên đắp trước khi đi
ngủ, sáng hôm sau có thể tháo miếng thuốc để không ảnh hưởng đến sinh hoạt và làm
việc. Nếu có điều kiện đắp được 24 giờ càng tốt.

Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, sau khi đắp thuốc 12-24 giờ, huyết áp bắt đầu hạ

xuống, các dấu hiệu trực giác của người bệnh giảm nhẹ. Bệnh nhẹ đắp 1 lần, bệnh nặng
đắp 2-3 lần là có hiệu quả giảm huyết áp rõ rệt.

KT LUN

Trong thực tiễn lâm sàng, chúng tôi nhận thấy đắp thuốc vào huyệt cho hiệu quả

tốt, có tác dụng làm hạ huyết áp một cách căn bản; Nhưng nên phối hợp với các phương
pháp điều trị khác để nâng cao hiệu quả.

Ðây là một phương pháp đơn giản, bệnh nhân có thể tự áp dụng dễ dàng. Tuy

nhiên, cần chú ý thường xuyên theo dõi huyết áp trong suốt quá trình trị liệu... Nếu sau
khi đắp thuốc vài ngày, huyết áp chưa hạ được đến mức an toàn thì nên phối hợp thêm
các phương pháp khác như dùng thuốc Ðông y dưới dạng thuốc sắc, châm cứu, bấm
huyệt. Nếu cần thiết, vẫn nên dùng các thuốc Tây y để đạt được mục tiêu trước mắt.

Vị thuốc ngô thù du có thể dễ dàng tìm mua tại các cửa hàng thuốc Bắc. Vào thời

điểm hiện nay, giá chỉ vào khoảng 10.000đ/100g, thiết nghĩ là chi phí khá hợp lý, có thể
chấp nhận được cho một liệu trình điều trị.


Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.