nhiên ngồi lại, tiếp tục gọt đẻo, chắc là nhớ ra thằng Điền đã lặn lội nước
sông từ năm bốn tuổi, sức mấy mà chết trôi.
Chúng tôi biết là khó đòi hỏi gì hơn nữa, chỉ một chút xao lòng của cha, là
mừng lắm rồi. Cha giống như đồ vật bằng gốm vừa qua cơn lửa lớn, vẫn
hình dáng ấy nhưng đã rạn nứt, nên chúng tôi chỉ dám đứng xa mà nhìn, mủ
mỉ nâng niu, nếu không thì vỡ mất.
Và chiếc ghe, cánh đồng, dòng sông thênh thang mãi…
Tôi và Điền buộc phải tự học lấy cách sống. Nhiều khi dễ đến không ngờ…
Nhờ Điền bị rắn hổ đất cắn mà chúng tôi biết được cách phân biệt vết răng
của rắn độc. Nó để lại trên cổ chân Điền một cặp vết răng như hai cái lổ
nhỏ, sâu hoắm. Tất nhiên, phải nhờ người thợ gặt tốt bụng vác thằng Điền
chạy một đỗi đồng để tới ông thầy lấy nọc rắn, nó mới giữ được cái mạng
để rút… kinh nghiệm. Sau này, một lần băng qua một đám cỏ dày, đến lượt
tôi bị rắn cắn, tôi kêu, Điền ơi, chắc Hai chết trước à. Thằng Điền nhìn vết
thương nó cười, nói không sao, số Hai sống lâu lắm, hai hàng răng tươm
máu giống hệt nhau như vầy, chắc cú là rắn bông súng cắn chơi thôi. Và
nhìn bướm bay, nhìn mây trôi tôi biết ngày nắng hay mưa. Nghe bìm bịp
kêu chúng tôi biết nước lên. Dừng ghe ở một tuyến kinh nào, thằng Điền
trèo lên ngọn cây cao, ngó bao quát cánh đồng và tính toán xem có thể cầm
vịt ở đấy bao lâu thì hết thức ăn, đúng chóc. Hay chúng tôi tự phán đoán ở
đâu vụ mùa đến sớm, vùng nào lại trễ tràng để rời cánh đồng này, chúng tôi
đến ngay một cánh đồng khác, ngay khi lúa vừa chín tới.
Thành ra, mùa du mục của chúng tôi kéo dài liên tục từ mùa mưa sang
nắng, rồi lại mưa. Nhiều lúc tôi hơi nhớ con - người. Họ ở trong cái xóm
nhỏ kia, chỉ cách chỗ chúng tôi dựng trại vài ba công đất. Họ lúc nhúc trên
thị trấn kia, nơi chúng tôi vẫn thường ghé lại mua gạo, cám, mắm muối…
dự trữ cho những chuyến chạy đồng xa. Và họ ở gần ngay đây, họ vừa gặt
lúa vừa nói chuyện tục tĩu rồi cười vang bên bầy vịt đang rúc rích tìm thức
ăn, nhưng tôi vẫn nhớ...