người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm, chếnh choáng: “Ba mấy
cưng đẹp trai dễ sợ…”.
Vì lẽ đó ? Có phải vì cha mà chị ở lại với chúng tôi, trên một cánh đồng
vắng ngắt. Những vết thương đã lành rất mau. Chị cười, bị đánh hoài riết
cũng quen. Tôi hỏi chị làm gì để bị đánh. Chị cười, “Làm đĩ”. Rồi có lẽ chị
áy náy vì quá sỗ sàng với chúng tôi, chị vò đầu Điền “chắc mấy cưng
không biết đâu…”.
Điền nhìn tôi cười. Chúng tôi đã gặp nhiều, rất nhiều người phụ nữ giống
chị. Cứ mỗi mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những
thợ gặt, những người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm
ra vẻ trẻ trung, tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước
mắt. Đêm đến, sau các đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn
man… lên trời, làm nhiều người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú
trong lều thắt lòng lại. Tối nào mua rượu cho cha, chúng tôi cũng đi ngang
qua những đôi người. Chúng tôi nhận ra họ ngay, khi không còn mảnh vải
nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân mình chứ
không trơ ra ngượng ngịu, cam chịu như những người phụ nữ quê. Sáng
sau, họ xiêu xiêu biến mất, đem theo mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm
việc quần quật của đám đàn ông.
Chị, cũng giống như họ, chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới chạy
xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất là
làm nghề. Ở đó đàn ông dễ tính và thiệt thà. Chị sống nhờ những món tiền
họ cắm câu đêm đêm, bằng tiền bán lúa, dừa khô hay những buồng chuối
chín. Cũng có lúc thu hoạch bất ngờ, khi chị mồi chài một người đàn ông
vào trò chơi giường chiếu, suốt hai ngày đêm, và chị được một triệu hai. Đó
là vốn vay xoá đói giảm nghèo, khi về tới nhà, với tám trăm ngàn còn lại
trong túi, hẳn người đàn ông ấy não nề biết bao nhiêu, oán chị biết bao
nhiêu khi thấy vợ con nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập
nhoạng nắng chiều.