mòn đến nỗi chỉ còn trơ lại một chữ, LAUGH
vốn đã làm các nhà sử gia địa phương phải đau đầu từ hơn một trăm năm.
Nó thành kính đặt mấy bông hoa lên phía trước tấm bia.
Má Slaughter mỉm cười với nó. "Cháu ngoan lắm. Không biết chúng ta sẽ
làm gì nếu không có cháu nhỉ."
"Cảm ơn má," Bod nói. Rồi nó hỏi, "Mọi người đâu cả rồi ạ? Má là người
đầu tiên cháu nhìn thấy đêm nay đấy”
Má Slaughter chăm chú nhìn nó. "Cháu đã làm gì với cái trán của mình thế
kia?"
"Cháu bị đập đầu vào mộ của ông Jones ạ. Chẳng hiểu sao nó lại cứng đặc
lại..”
Nhưng Má Slaughter đã mím môi lại và nghiêng đầu sang một bên. Cặp
mắt tuy già nhưng vẫn sáng ngời của má săm soi Bod từ bên dưới vành mũ.
"Ta đã gọi cháu là chú bé, phải không nhỉ? Nhưng thời gian trôi qua chỉ trong
nháy mắt, và giờ thì cháu đã là một chàng trai rồi, phải không? Cháu bao
nhiêu tuổi?"
"Cháu đoán là gần mười lăm ạ. Nhưng cháu vẫn cảm thấy y như cũ," Bod
nói, nhưng Má Slaughter ngắt lời nó, "Còn ta thì vẫn cảm thấy như khi ta còn
là một cô bé con, hái hoa cúc dại tết thành vòng trên cánh đồng cỏ ngày xưa.
Bản thân ta thì không bao giờ thay đổi, nhưng con người ta thì lại luôn luôn
đổi thay, ta không thể làm gì về chuyện đó được."
Má ngồi xuống trên tấm bia mộ rạn nứt của mình, rồi nói, "Ta vẫn còn nhớ
rõ cháu vào cái đêm cháu đến đây, chàng trai ạ. Ta đã bảo, 'Chúng ta không
thể để thằng bé đi đâu khác được, và mẹ cháu cũng đồng ý với ta, rồi tất cả
bọn họ cãi cọ ầm ĩ cho đến khi Phu nhân Xám cưỡi ngựa đi tới. 'Hỡi các cư
dân của Nghĩa địa, phu nhân nói. 'Hãy nghe lời Má Slaughter. Các người
không có chút lòng từ thiện nào hay sao?' và thế là bọn họ đã nghe theo lời
ta." Giọng má kéo dài rồi nhỏ bặt lại, và má lắc lắc cái đầu nhỏ bé của mình.
"Ở đây chẳng mấy khi xảy ra chuyện gì khiến cho ngày hôm nay khác ngày
hôm qua. Các mùa nối tiếp nhau. Dây thường xuân mọc. Bia mộ bị đổ.
Nhưng khi cháu đến đây... vậy đấy, ta rất mừng vì cháu đã đến đây."
Má đứng dậy, rút một cái khăn tay cáu bẩn từ trong tay áo ra, nhổ nước bọt