lên đó, và cố vươn tay lên cao hết mức để lau máu trên trán Bod. "Rồi, bây
giờ thì trông cháu lại bảnh bao rồi đấy," má nghiêm khắc nói. "Vì không biết
đến bao giờ ta mới được gặp lại cháu. Cẩn thận đấy nhé."
Theo như Bod nhớ được thì chưa bao giờ nó lại cảm thấy bối rối như thế
này. Nó quay về ngôi mộ của gia đình Owens, và sung sướng khi thấy bố mẹ
mình đang đứng đợi bên cạnh đó. Nhưng khi lại gần, thì nỗi sung sướng của
nó chuyển thành lo ngại: tại sao ông bà Owens lại đứng một cách chỉnh tề ở
hai bên ngôi mộ như thế, nom như hai hình vẽ trên cửa sổ kính màu vậy? Nó
không thể dò nổi vẻ mặt của họ.
Bố nó bước tới trước và nói, "Chào con, Bod. Bố mong là con đang thấy
dễ chịu đấy chứ."
"Cũng tạm ổn ạ," Bod nói, đó là câu ông Owens thường dùng để trả lời
bạn bè mỗi khi họ hỏi thăm ông.
Ông Owens nói, "Cả đời mình, mẹ con và bố đã luôn mong ước có một
đứa con. Bố không tin là bố mẹ có thể có được đứa con nào ngoan ngoãn hơn
con, Bod ạ." Ông tự hào ngước lên nhìn con trai mình.
Bod nói, "Vâng ạ, con cảm ơn bố, nhưng mà..." Nó quay sang nhìn mẹ,
đoan chắc rằng nó có thể bắt bà giải thích xem chuyện gì đang xảy ra, nhưng
mẹ nó không còn đứng đó nữa. "Mẹ đi đâu rồi ạ?"
"À. ừ." Ông Owens có vẻ lúng túng. "À, con biết mẹ Betsy của con rồi
mà. Có những chuyện, có những lúc. Mà, ờ, khi ấy con không biết phải nói
gì. Con có hiểu không?"
"Không ạ," Bod đáp.
"Bố đoán là chú Silas đang đợi con đấy," bố nó bảo, rồi biến mất.
Đã quá nửa đêm rồi. Bod liền tìm đường đi xuống ngôi nhà thờ cũ. Cái
cây mọc trên ống máng ở mái nhà thờ đã bị đổ xuống sau trận bão vừa rồi,
kéo theo một loạt những viên ngói bằng đá đen.
Bod ngồi đợi trên cái ghế dài bằng gỗ xám, nhưng chẳng thấy bóng dáng
chú Silas đâu.
Gió nổi mạnh hơn. Đó là một đêm hè muộn, khi ánh chiều chạng vạng kéo
dài tưởng chừng không bao giờ tắt, và trời rất ấm, nhưng Bod vẫn cảm thấy
tay mình nổi da gà.