"Tấm bia mộ của chị," nó nói. "Em muốn biết chị muốn ghi chữ gì lên
đó."
'Tên của tôi” cô nói. "Nó phải ghi tên tôi, với một chữ E hoa, tức là
Elizabeth, giống như vị nữ hoàng đã mất khi tôi ra đời, và một chữ H hoa, tức
là Hempstock. Trên đó có viết thêm gì nữa thì tôi không cần biết, vì tôi cũng
chẳng phải người hay chữ."
"Thế còn ngày tháng thì sao?" Bod hỏi.
"Willyum Người Chinh phục, một ngàn không trăm sáu mươi sáu” cô nói
bằng giọng du dương như hát, trong tiếng gió buổi sáng xào xạc giữa bụi táo
gai. "Chỉ cần một chữ E hoa. Và một chữ H hoa."
"Thế chị có nghề nghiệp gì không?" Bod hỏi. "Ý em là, khi chị không làm
phù thủy ấy?"
"Tôi làm nghề giặt là” cô gái đáp, thế rồi ánh nắng sớm tràn ngập khoảng
đất hoang, và Bod chỉ còn lại một mình.
Đã là chín giờ sáng, cả thế giới đều đang ngủ say. Nhưng Bod thì cương
quyết không đi ngủ. Nó có sứ mệnh phải hoàn thành. Nó là một chú bé lên
tám, và thế giới bên ngoài nghĩa địa đối với nó không có gì dáng sợ cả.
Quần áo. Nó cần phải có quần áo. Nó biết tấm vải liệm màu xám nó
thường mặc sẽ không dùng được. Trong nghĩa địa thì tấm vải ấy là một chiếc
áo tốt, vì nó đồng màu với những phiến đá và những cái bóng. Nhưng nếu
muốn dấn thân vào thế giới bên ngoài những bức tường nghĩa địa thì nó cần
phải hòa nhập
vào thế giới đó.
Trong hầm mộ bên dưới ngôi nhà thờ đổ nát có mấy bộ quần áo, nhưng
Bod không muốn đi xuống hầm mộ, ngay cả vào giữa buổi sáng. Bod đã sắp
sẵn cớ để tự thanh minh với ông bà Owens, nhưng nó không muốn phải giải
thích với chú Silas; chỉ cần nghĩ đến việc đôi mắt tối sẫm của chú trở nên
giận dữ, hay tệ hơn nữa là thất vọng, là nó đã thấy hổ thẹn vô cùng rồi.
Ở góc nghĩa địa có nhà kho của người làm vườn, một căn chái nhỏ màu
xanh bốc mùi đầu máy, trong đó đặt chiếc máy cắt cỏ đã cũ, không được sử
dụng nên hoen gỉ hết, cùng với một số dụng cụ làm vườn cũ kỹ khác. Cái kho
đã bị bỏ hoang khi người làm vườn cuối cùng của nghĩa địa về hưu, từ trước