Dầu sao, cuối cùng tôi đã chôn được tất cả những xác chết tôi gặp ở
trong rừng, tôi lại lên đường và đi tới một dòng sông rộng. Đó là sông
Sittang, nước đục ngầu cuồn cuộn chảy xiết. Trong lúc đang tìm một chiếc
thuyền để chở qua sông, tôi nom thấy một cảnh tượng gớm ghiếc.
Đó là một đống cao những xác người đang rữa nát: Những xác ấy đã bị
quẳng hết cả vào một vũng lầy men bờ sông, chồng chất lên nhau trong
nước âm ấm giữa đám cỏ lác chằng chịt và bọt nước đóng váng dầy cộm.
Hình như họ đã bị lột hết quần áo, đồ trang bị và mọi thứ. Có lẽ đây là chỗ
qua sông quân đội ta muốn vượt - nơi nhiều người đã bị chết lúc rút lui.
Tôi lấy tay che kín mặt. Công việc này vượt quá khả năng của tôi. Tôi
không thể giải quyết một mình được.
Và vì thế tôi đành bó tay. Tôi không định tâm chôn họ. Người chết đã
chết rồi, tôi tự nhủ; tôi sẽ không nghĩ đến họ nữa. Tôi cảm thấy thương xót
những người bất hạnh này; tuy nhiên, tôi không có trách nhiệm gì đối với
họ - tôi chẳng thể ngừng lại mà bận tâm đến từng người một. Tôi sắp sửa
trở lại đại đội của tôi, trở về Nhật Bản và bắt đầu một cuộc sống mới! Đó là
điều trong thâm tâm tôi muốn làm.
Tôi đã quyết định và cảm thấy nhẹ nhõm cả người. Tôi dùng thuyền
xuôi sông, thỉnh thoảng lấy xe bò hoặc đáp xe lửa vượt đồng bằng rồi tới
Mudon.
Trong khi đi như vậy tôi đã nói tiếng Miến Điện khá trôi chảy cũng như
tập sống làm một tu sĩ.
Khi tôi tới Mudon, tim tôi bắt đầu rộn rã. Tại ven rừng tôi gặp một
người đàn ông và hỏi thăm về thành phố này. Người ấy vừa ngả một cây, và
bắt được năm con vẹt. Người ấy cho tôi con xanh nhất. Sau đó bất kỳ đi
đâu tôi cũng mang con chim theo, và đó chính là con chim tôi sẽ gửi kèm
với lá thư này.
Theo lời người đàn ông nói chuyện với tôi thì có nhiều trại tù binh Nhật
Bản ở Mudon, và tại một trong những trại này có những tù binh cứ ca hát
cả ngày. Rồi tôi được biết các bạn hãy còn ở đó và tôi thấy lòng vui khôn tả
khi tiếp tục rảo bước đi vào thành phố. Sau nhiều lần hỏi thăm, tôi tìm thấy