Một hôm, tại đó, trong hốc sâu tối om, ngột ngạt của pho tượng Phật, tôi
cảm thấy mệt quá nên đã dựa người vào bức tượng để nghĩ. Lúc đang thiêm
thiếp ngủ, tôi nghe thấy tiếng các bạn hát.
Giật bắn mình choàng dậy, tôi liền chộp cây thụ cầm - kể từ khi bắt đầu
ra đi lúc nào tôi cũng mang theo cây đàn. Khi tới Mudon tôi thường chơi
đàn với thằng bé tại tịnh xá. Vì thế, dĩ nhiên, hôm ấy tôi cũng mang theo
cây đàn.
Chắc là các bạn ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng đàn phát ra từ một nơi
không ngờ đến thế. Xin các bạn tha thứ cho tôi nhé. Nhưng lúc đánh đàn tôi
chỉ có ý nghĩ, duy nhất là: Tôi đây các bạn ơi! Tôi hãy còn sống! Các bạn
đồng đội thân mến của tôi ơi, chúng ta hãy cùng nhau hát lên nào!
Sau đó, lúc các bạn đập cửa ầm ầm, tôi đang đứng ở bên trong, hai tay
nắm chặt, buồn khổ. Tôi nhận ra tiếng từng người một. Nhưng vì bây giờ
đã là một nhà sư rồi nên tôi không thể mở toang cửa rồi ra ôm chầm các
bạn được.
Thế rồi lại im phăng phắc, tôi trèo lên một cái thang để ghé mắt nhìn
qua một mắt của pho tượng Phật. Tôi trông thấy các bạn đang bị tên lính
Ấn Độ dẫn ra ngoài đi về hướng ngôi chùa.
Tôi đã trở thành một nhà sư Miến Điện. Sau khi chôn cất những xác chết
ấy gần sông Sittang, tôi đến ngôi chùa gần đó và xuống tóc đi tu. Tôi tiếp
tục học bất kỳ khi nào có thể và thực hành mọi sắc giới khổ hạnh. Tôi bỏ
tấm băng đeo ở cánh tay mà người con gái viên tù trưởng đã cho; nhưng
sau đó, nhận thấy tôi đã cố gắng chôn cất những người chết nên nhà chùa
lại cho tôi một tấm băng đeo tay khác.
Công việc tôi phải làm hình như cứ gia tăng hàng ngày. Không những
tôi phải đem an ủi đến cho linh hồn những người lính Nhật mà còn phải
làm tròn nhiệm vụ của một tu sĩ Miến Điện, và tôi muốn làm tất cả những
gì có thể cho dân tộc ở xứ này.
Tôi muốn nghiên cứu giáo lý của đức Phật, suy ngẫm về những giáo lý
ấy và biến truyền những giáo lý ấy thành một phần trong cuộc sống của
mình. Chúng ta và đồng bào chúng ta đã đau khổ một cách tàn ác. Nhiều
người dân vô tội đã hy sinh cho một chính nghĩa phi lý. Thanh niên vô tội,