Có người bắt đầu nức nở khóc. Bất thình lình số anh em còn lại cảm
thấy buồn đến nỗi cũng òa lên khóc. Tuy nhiên, chúng tôi không buồn rầu
hoặc đau đớn về một điều gì riêng tư, đặc biệt cả. Thực ra chỉ vì chúng tôi
cảm thấy chán nản và thất vọng.
Thường thường chúng tôi hát khi chúng tôi đau khổ, nhưng đêm ấy
chúng tôi không hát. Chúng tôi nằm ngủ trên nền nhà, dùng túi quân trang
làm gối gối đầu. Những cây súng chúng tôi giữ gìn cẩn thận đến thế nay
không còn nữa. Đó là một đêm bứt rứt, ngắn ngủi.
Sau đó, chúng tôi sống nhiều ngày không thực - lòng tê tái, nhưng vô
cùng bận rộn. Nào xếp võ khí, đồ trang bị vào kho rồi chở những thứ đó đi,
nào báo cáo kiểm tra nhiều lần hoặc kiếm tìm thực phẩm - tất cả những
công việc này đã khiến chúng tôi vất vả, bận rộn đến độ chẳng có thì giờ để
suy nghĩ nữa.
Khi nhìn lại thời kỳ ấy, tôi luôn luôn nhớ một chuyện chẳng thể quên.
Quân đội Anh quyết định đóng lại ở làng ấy ba bốn ngày và bắt tù binh
chiến tranh chúng tôi phải làm việc hầu hạ họ. Một sáng nhiều anh em phải
làm phận sự hỏa thực. Chúng tôi phải vặt lông gà dân làng đem đến biếu
quân đội chiếm đóng.
Bị nhốt chật ních trong một cái lồng, những con gà thò đầu qua lỗ đan
vừa đăm chiêu nhìn chỗ này chỗ nọ vừa lắc lư cái mào. Một tay đầu bếp
Miến Điện nắm lấy một con kéo ra khỏi lồng để nằm trên một hòn đá, rồi
lấy con dao dah -một dụng cụ giống như cái rìu nhỏ người Miến Điện
thường đeo ở thắt lưng - chặt phăng đầu con gà.
Tên đầu bếp nhai trầu nhổ ra chất nước màu đỏ trong lúc nhởn nha nhởn
nhơ làm việc. Cau là một thứ quả lấy ở cây cau, dân miền Đông Nam Á ăn
trầu giống như nhai kẹo cao su vậy, nhưng thứ đó màu đỏ làm mồm, răng
và môi người nhai biến thành một màu khó chịu. Tên đầu bếp chặt hết đầu
con gà này đến đầu con gà khác, và chúng tôi phải vặt lông.
Điều ngạc nhiên chúng tôi thấy là một trong những con gà vừa bị chặt
mất đầu lại vung cánh bay. Vỗ mạnh đôi cánh làm lông bay tả tơi, con gà
giãy giụa nhảy mấy vòng, trông thật kỳ lạ. Chúng tôi ngớ cả người ra, đánh