Vị tu sĩ cũng ở đó. Chúng tôi muốn ông ấy hát theo. Và tha thiết vẫy tay
ra hiệu cho ông ấy biết. Nhưng ông ấy chỉ đứng đó thẫn thờ, không chú ý,
mắt lim dim. Hiển nhiên, ông ấy không muốn tham dự vào những chuyện
tầm phào như thế.
Bẵng đi một dạo, chúng tôi chẳng buồn đế ý tới những lần vị tu sĩ đến
xem. Trong khi đó anh em được biết người Miến Điện đang có cảm tình rất
thân thiện với anh em tù binh chiến tranh, và một hàng rào khác được dựng
lên bên trong hàng rào cũ để ngăn cách chúng tôi, xa hơn nữa, với những
người đứng xem ở ngoài. Cho dẫu vị tu sĩ có đến chúng tôi cũng không thể
cho ông ấy của bố thí. Có lẽ vì thế ông ấy cũng thôi không tới.
4
Trong khi thời gian cứ tiếp tục trôi qua, điều anh em nghĩ rằng
Mizushima đã chết đã ăn sâu vào tâm khảm tất cả mọi người. Anh em thôi
không nói về anh ấy nữa. Ai nấy cũng thận trọng tránh nó. Thế rồi một
nguồn tin bất ngờ đến với chúng tôi, và dường như chắc chắn là anh ấy đã
chết rồi.
Nguồn tin này do một bà lão bán hàng đến trại giam cho biết. Bà thường
bán hàng cho lính Nhật đóng tại thành phố Mudon khi họ hãy còn tràn trề
uy quyền. Bà thuộc loại mình gọi là "Bà" mà anh thường thấy tại các đồn
binh. Bà thường đối đãi với lính tráng như thể họ chính là con cháu mình,
nào giặt nào mạng quần áo hoặc mời họ về nhà ăn cơm.
Bà cụ này ngoan đạo lắm, dù là đối với một người Miến Điện. Vì đã
buôn bán khá nhiều với quân đội Nhật Bản, chắc bà đã kiếm được rất khá
tiền, nhưng đã đem những tiền ấy cúng vào chùa và vẫn sống nghèo khổ.
Tuy bây giờ chúng tôi là tù binh song bà vẫn thường đến giúp đỡ anh em.
Bà thường nói chuyện với bất kỳ ai, vừa khoa những cánh tay xạm nắng
vừa cười vui vẻ, đến độ cái thân hình mập mạp rung lên. Khi nghe thấy
tiếng bà cười, chúng tôi không thể không bị lây và cũng khúc khích cười