tất sẽ bay đến chỗ con chim kia. Tôi rất tiếc là đã làm phiền tất cả anh em,
nhưng tôi hy vọng anh em sẽ cố gắng chịu đựng hơn chút nữa để xem kế
hoạch này có đem lại kết quả không".
Chúng tôi nghĩ đại úy đã làm thế là vì anh em; chúng tôi bắt đầu thay
phiên nhau cho con chim ăn và dậy nó nói nhiều thứ hơn nữa.
Tuy nhiên, người lính già vẫn còn lo lắng về đại úy, và ông ta nhìn con
chim với cặp mắt giận dữ. Sau đó, ông thường lắc đầu thở dài sườn sượt.
Dầu sao trước đó đại úy đã làm hết cách để dò hỏi tin tức về Mizushima,
nhưng luôn luôn thất bại. Trước đó ông đã giải thích tất cả vấn đề cho viên
Sĩ quan Anh quản đốc trại giam nghe và hỏi liệu viên Sĩ quan ấy có thể tìm
ra manh mối nào về anh ấy không. Viên sĩ quan này rất tử tế; ông ta đã dò
hỏi nhiều lần song không có kết quả. Đám lính Anh chiến đấu ở mặt trận
trên đỉnh núi hình tam giác đã hồi hương hết rồi. Những tù binh Nhật bị
thương đã được đưa từ Mudon tới nơi nào đó và rồi được chỉ định đến
nhiều y viện tùy theo tình trạng của họ. Không ai biết họ ở đâu. Là tù binh
chiến tranh, cho dù có biết, chúng tôi cũng không thể ra đi điều tra được.
Những gì quân đội Anh có thể cho chúng tôi biết ấy là tình hình cho thấy
người ấy đã chết rồi.
Thế rồi đại úy lại viết một lá thư nữa, chủ ý nhờ gửi tới tay vị tu sĩ ấy.
Lá thư có đoạn viết: "Nếu chú là Mizushima, xin hãy trở về với anh em -
chú không hiểu anh em đã nhớ nhung chú ra sao. Đối với chú, cho dù trở về
có gây khó khăn đến thế nào đi nữa, vấn đề ấy cũng sẽ được giải quyết. Tôi
bảo đảm điều ấy. Ít nhất cũng nói cho anh em hay tại sao chú lại cải trang
mà đi quanh quẩn như thế”
Sau đám rước tang lễ ít lâu, trước khi con vẹt đã huấn luyện thuần thục,
bà lão bán hàng lại đến thăm chúng tôi. Đại úy đưa bà lá thư và nhờ trao
cho ông sư có con vẹt xanh ấy. Nhưng bà lão vội vã giẫy nảy như thể bị
bỏng.
"Ồ, không, không đời nào!" Bà kêu to. "Tôi sẽ chẳng bao giờ đưa thư
nữa dù ngay đức Phật có bảo! Trước đó đã bị mắng thậm tệ vì làm như thế
nên bà lão không dám làm theo.