róc rách và tiếng trái hồ đào thỉnh thoảng rơi lộp bộp xuống mái nhà ngay
trên đầu. Trong gian nhà ươm tằm, những con tằm sẽ vừa đang ngủ vừa
gặm lá dâu và rồi mỗi con sẽ tự kết thành kén. Tớ sẽ trở về với cuộc sống
bận rộn, sung sướng ấy để chăm nom, săn sóc chúng...”
“Ừ, tớ sẽ vào làm việc trong một nhà máy. Tớ sẽ nghe tiếng rít của kim
khí toát ra từ các bộ máy và sẽ nhìn thấy những chiếc ốc-chuồn, những
chiếc bù-loong nhỏ bé, bóng lộn bắn ra rơi xuống đất. Đó là chuyên môn
của tớ mà.”
“Tớ sẽ cầm đèn báo hiệu cho xe lửa tại nhà ga. Đến đêm tớ thường phải
làm công việc này chỉ có một mình.”
“Tớ sẽ vừa thổi còi vừa đạp xe đạp đi đưa các thứ chung quanh khu phố
Ginza. Và trên đường về sở làm tớ sẽ tạt vào rạp xi nê làm một chầu hoặc
một bữa lót dạ.”
Vừa lúc ấy bà lão đi tới. Hôm nay trông bà dường như có vẻ im lặng và
ủ dột, chứ không ba hoa như thường lệ. Bà ngồi phệt xuống đất, bày đồ
hàng quanh người rồi đưa nhãn và măng cụt cho tất cả anh em chúng tôi.
Mùi thơm nồng nàn của những trái cây này, tràn ngập ánh nắng mặt trời
miền nhiệt đới, xông lên mắt lên mũi chúng tôi. Biết rằng đây là lần cuối
cùng có thể tiếp nhận lòng tốt của bà, chúng tôi nghĩ bụng những quả này
ăn sẽ ngon hơn bao giờ hết.
Bà lão lôi một con chim từ trong vạt áo ra. Đó là con vẹt.
“Cảm ơn chú mày đã đưa tin giúp chúng ta,” một người lính nói với con
chim. “Nhưng kết quả không tốt đẹp mấy có phải không?”
Con vẹt lắc cái đầu xanh mịn mượt, óng ánh như thể có đeo ngọc quí,
rồi đưa mắt nhìn một cách tò mò một lúc. Đoạn nó rít lên bằng tiếng Nhật
Bản, giọng cao vút: “À, tôi không thể trở về quê hương được đâu!”
“Nó đã học được cái gì mới!” Chúng tôi thốt kêu.
Đúng lúc ấy người lính già đi lên. Khi nhìn thấy con vẹt, ông chau mày:
“Cái con chim ấy không còn ích lợi gì với chúng ta nữa. Thanh toán nó đi
cho rảnh!” Ông nắm ngay chân con vẹt; con chim nhoai cổ ra, rít lên và đập
cánh phành phạch.