hôi ra rồi lấy bột bánh tẩm mồ hôi người ấy mà ăn. Sau đó họ mới làm thịt
người ấy.
Tuy là mọi ăn thịt người, song họ không giết người một cách bừa bãi,
mà chỉ giết khi nào nhận thấy cần thiết vì mục đích quỉ thuật. Họ sống luôn
luôn khiếp sợ các thần linh vô hình mà họ cho là lúc nào cũng ở xung
quanh. Bọn man rợ gớm ghiếc này thực ra rất nhút nhát. Khi cầu nguyện để
có một mùa gặt tốt đẹp, họ cố gắng làm yên lòng thần linh bằng cách hiến
dâng cái vật gì thật quí báu - một cái đầu người. Họ ăn thịt nạn nhân, bởi vì
họ hy vọng lấy sức mạnh của nạn nhân tăng bồi sức mạnh của chính họ, và
như thế có thể đương đầu tốt hơn với thần linh dữ dằn. Do vậy, chỉ vào
khoảng mùa gặt, bộ lạc Kachin mới nguy hiểm. Khi thời gian ấy qua rồi, họ
lại hiền lành và tử tế.
Khắp mọi nơi ở Miến Điện dân chúng tin tưởng vào thần Nat. Những
thần linh này sống ở trên cây, trong đá và các vật tự nhiên khác; nếu các
thần linh ấy yêu anh, thì may mắn sẽ đến với anh. Nhưng nếu anh làm phật
lòng các thần linh ấy đến phải giận dữ, thì anh sẽ gánh chịu một tai ương
khủng khiếp. Người Miến Điện nào - kể cả những người trí thức - cũng thờ
thần Nat. Tôi thường nhìn thấy dân chúng dâng đồ cúng hoặc tổ chức tế lễ
để các thần linh này khỏi giận dữ. Bọn người man rợ này cũng thờ thần Nat
và đã dựng nhiều ngôi miếu nho nhỏ để thờ cúng.
"Khi nào tôi sẽ bị các ông ăn thịt?" Tôi hỏi ông già.
"Ngày mai sẽ có đại lễ!"
Đến lúc này chẳng cần kìm hãm sự ăn uống nên tôi đã làm một hơi hết
con gà nướng. Nhưng ấy thế mà miệng tôi vẫn cảm thấy khô khan, con gà
hình như không ngon lành. Ông già để mắt chằm chằm nhìn thân thể tôi
một cách thậm thèm.
Tôi bình tĩnh một cách kỳ lạ. Quả thực, tôi đang nói chuyện với những
con người man rợ, thuần phác. Phải nghĩ ra cái gì để giảm nhẹ tình thế
nguy hiểm của tôi. Dù sao, lúc này, tẩu thoát xét ra khó khăn rồi, và có lẽ
bất lợi cho tôi. Tôi bèn ỷ lại vào cây thụ cầm. Chỉ vơ tay là có thể sử dụng
ngay cây đàn, tôi tự nhủ. Chừng nào còn có cái đó... Đêm ấy tôi ngủ ngon
lắm, vừa ngủ vừa ôm chặt cây đàn.