Dù không biết tại sao, bụng ông thấy quặn lại vì bực bội.
Phải làm thật nhanh. Nhưng làm gì?
Wallander bắt đầu bằng việc xuống hầm để đồ.
• • •
Những bậc thang cứng như thể dẫn xuống nội tạng trái đất, chứ không
phải xuống một tầng hầm bình thường. Ông đi đến một cánh cửa sắt sơn
xanh, tìm được chìa khóa trong đống chìa khóa mà Nyberg đưa và mở cửa
ra. Mùi mốc bay lơ lửng trong bóng tối. Ông bật chiếc đèn pin lúc nào cũng
để trong xe và tìm được công tắt điện. Nó được lắp thấp đến khác thường,
như thể là để dành cho những người rất nhỏ bé dùng. Ông đứng ở lối vào
một hành lang hẹp hai bên là những khoang đan lưới sắt. Đã từng có lúc
ông nghĩ rằng những cái hầm đặc trưng của Thụy Điển này rất giống với
các nhà tù nguyên thủy. Thay vì nhốt tù nhân, chúng chứa những chiếc sofa
hỏng, đồ trượt tuyết và hàng núi vali. Bức tường đằng sau trơ gạch ở đôi
chỗ. Gạch rất cũ, có thể là đã nhiều thế kỷ. Hồi mùa xuân, Linda kể cho
ông về một người khách kỳ dị ở quán ăn mà cô phục vụ. Người khách đó
đeo kính một mắt, như thể là một người từ một thời xa xưa đến. Ông ta hỏi
cô người ở đâu. Ông ta nói rằng theo âm sắc, ông ta đoán cô là người
Sjobo. Cô trả lời cô là người Scanie, nhưng sinh ở Malmo và lớn lên ở
Ystad; người khách đó bèn đọc cho cô những lời mà Strindberg vĩ đại từng
dùng để miêu tả Ystad vào cuối thế kỷ trước. ‘Một ổ cướp biển’, Strindberg
đã tuyên bố như vậy. Linda đã gọi ngay cho bố để kể chuyện đó, giọng đầy
thích thú.
Hầm để đồ của Svedberg nằm ở cuối hành lang. Wallander nhận ra rằng
tấm lưới sắt đã được gia cố bằng hai thanh sắt đặt chéo nhau, cài chặt bằng
một cái khóa chắc chắn. Svedberg không làm việc gì nửa chừng. Tại sao?
Wallander đã nghĩ đến việc mang theo một đôi găng tay nylông. Ông đi