quốc gia ở Stockholm, để phản ứng trước sự hoành hành của các giáo phái
đó, nhìn từ quan điểm của cảnh sát. Thường là rất khó để can thiệp. Họ
không còn là những kẻ điên rồ biệt lập, mà là các hãng được tin học hóa,
vây xung quanh là các luật sư và chuyên gia kế toán. Các thành viên sẵn
sàng vay tiền để đóng phí khi không tự đủ sức về tài chính. Đàn áp về tình
thân, kỹ thuật làm việc quen thuộc của các giáo phái này, không phải lúc
nào cũng có thể bị coi là một hành động tội phạm. Khi trở về, Martinsson
nói là sẽ phải xây dựng một hệ thống luật pháp mới nếu muốn tấn công vào
những trò lừa đảo kiểu mới đó.
Wallander nhớ mình đã trả lời thế nào: những trò huyền bí, điên rồ mang
tính tôn giáo và việc tự cô lập với thế giới luôn tăng lên vào những giai
đoạn khủng hoảng kinh tế. Nhiều năm trước, ông từng bỏ cả một buổi tối
tranh luận ở ban công cùng Rydberg về liên đoàn Sala nổi tiếng, hoành
hành dữ dội trong những năm 1930, và sự tồn tại là hoàn toàn không thể
vào mươi năm trước hoặc sau đó.
Có thể là những năm 1930 đang trở lại, ông nghĩ. Với một biến thể tàn
bạo hơn.
— Đây là một phát hiện quan trọng, – ông kết luận. – Chúng ta sẽ cần
được giúp đỡ. Ở trung tâm, có bộ phận chuyên trách về các giáo phái mới.
Phía Mỹ hẳn cũng sẽ cung cấp cho chúng ta thông tin về các thành viên của
nhóm Divine Movers này. Nhưng điều quan trọng hơn cả là phải làm cho
các thanh niên khác nói ra, ngay cả khi làm vậy là vi phạm bí mật mà họ
giữ gìn hết sức cẩn thận đó.
— Họ tuyên thệ, – cô vừa giở hồ sơ vừa nói. – Sau đó, họ phải ăn một
mẩu gan ngựa sống.
— Họ phải tuyên thệ trước ai?
— Ở Thụy Điển thì chắc là Lena Norman.
Wallander lắc đầu.