Lâu lắm rồi cô không mở từ điển tiếng Trung, phải mất một lúc mới tìm
thấy nó trong đống từ đồng âm.
Kim Y, Cầm.
Cô đọc phần giải thích, hóa ra nó có nghĩa là cái chăn.
“Niệm Cầm
(**)
? Vậy thì chắc chắn là hồi nhỏ nhà rất nghèo, không có
chăn đắp”. Trình Nhân ngồi bên cạnh phân tích.
“Thế nhỡ trước khi ra đời đã được đặt tên thì sao?”. Tang Vô Yên phản
bác.
“Thế thì là trước khi kết hôn bố mẹ anh ấy rất nghèo, bố mẹ Trung Quốc
nào chả thích đặt hi vọng vào tên của con cái”. Trình Nhân tiếp tục những
phân tích chán ngắt của mình.
(*) Chữ "cầm" có chữ "kim" bên trên, chữ "y" bên dưới.
(**) Niệm Cầm có nghĩa là nhớ đến, hoài niệm cái chăn.
Cuối cùng Tang Vô Yên đầu hàng, không tiếp tục thảo luận vấn đề này
với cô n dội nước lạnh lên đầu người khác như Trình Nhân nữa.
Tô Niệm Cầm.
Tang Vô Yên nằm trên ghế sofa ôm cuốn từ điển thầm đọc ba chữ đó,
nhớ lại lúc hai người nói chuyện, bất giác mỉm cười.
Anh nói tiếng phổ thông rất chuẩn, nhưng chỉ riêng lúc đọc chữ “Cầm”
trong tên mình là hơi lên cao ở âm cuối. Có lẽ anh là người ở đây, vì người
thành phố A thường đọc thanh một thành thanh hai, thanh ba. Khi anh nói
những chữ khác người ta không nhận ra giọng địa phương của anh, chỉ
riêng khi đọc tên mình là không sửa được.
“Vô Yên”. Trình Nhân cắt ngang suy nghĩ của cô.
“Hở?”.