“Khi nào thì bữa tối bắt đầu ạ?” Charlie hỏi.
“Bảy rưỡi, mà ta thì không bao giờ chuẩn bị kịp.”
Một đàn người phụ việc phát rồ chạy ập tới chỗ bà bếp trưởng, thế là bà
vội xua bọn con trai đi, “Xin lỗi các con, ta phải tiếp tục đây.”
Charlie cầm cái khay đi vào căn – tin và đặt lên chiếc bàn xa quầy nhất.
Tiếng ồn ào từ bếp vọng ra ầm ĩ đến độ bọn trẻ không thể nghe được suy
nghĩ của chính mình. Chúng nuốt vội bữa tối và rút khỏi căn – tin càng
nhanh càng tốt.
Trở lại phòng ngủ chung, chúng thay pyjama vào và rón rén đi ra chiếu
nghỉ phía trên tiền sảnh. Nằm ép dẹp bụng xuống, chúng hé mắt dòm qua
những con tiện chắn lan can nhìn xuống tiền sảnh rộng lớn. Chúng gần như
không còn nhận ra tiền sảnh nữa.
Hàng ngàn ngọn đèn lồng thắp sáng trưng, một biển người di chuyển
chầm chậm quanh tiền sảnh. Hầu hết khách khứa đều diện đồ dạ và đồ đại
lễ, nhưng cũng có một số ông đội khăn xếp, số khác lại mặc áo chùng dát
vàng, và những người khác nữa thì khoác áo gió đủ sắc cầu vồng. Co cả vài
người mặc áo thụng trắng, và một người đàn ông ngập từ đầu đến chân
trong vải lụa màu tía, cùng với một bao kiếm nạm ngọc đeo ở thắt lưng.
Đám phụ nữ xúng xính sari Ấn Độ truyện trò với các bà các cô bận kimono
Nhật Bản; người người trong các kiểu trang phục truyền thống sặc sỡ nhiệt
tình nói chuyện mà chồm người tới trước, cố hiểu được ngôn ngữ của nhau.
Lão Ezekiel, thu lu trong bộ áo khác nhung đen và nón ôm sát đầu màu
đỏ, đẩy xe lăn xuyên thẳng qua đám đông; lão lăn tới đâu, từ phía sau ghế
lão ngồi những viên pháo tép rít lên và nổ lạch tạch liên hồi tới đó, khiến
cho một số vị khách phải nhảy bắn sang một bên, mút mát cánh tay và khớp
ngón tay bị cháy của mình.