thế?”
“Tụi em xuống xin chút nước uống ạ”, Charlie mau miệng. “Tụi em khát
đến nỗi định uống vòi nước trên lầu nhưng vì đường ống bị gỉ sét... hay làm
sao đó”.
“Tội không. Vào đi và tự lấy nước mà uống”, cô hất đầu về phía cánh
cửa căn – tin.
“Cảm ơn cô!” Charlie trao cho cô hầu một nụ cười tuyệt vời nhất. Nhưng
không cách chi nó dám vào nhà bếp xanh lá cây, nơi bà Weedon đang trấn
giữ. Bà ta là người nấu bếp bủn xỉn, bần tiện và vô cùng xấu tính, chắc
chắn bà sẽ sai chồng ra lôi cổ bọn nhóc về lại phòng ngủ chung.
Cô hầu bàn đẩy chiếc xe đi qua chúng và tới căn – tin xanh da trời. “Lộn
món rồi”, cô càu nhàu. “Thế mới rầy rà”.
Ngay đúng lúc cái lưng của cô rẽ ngoặt vào, hai thằng bé phóng vù tới
sảnh ăn tối. Chúng sắp lách qua cánh cửa đôi thì Billy hỏi, “Tụi mình trốn
đâu bây giờ?”
“Dưới gầm bàn,” Charlie nói.
“Nhưng... họ có thể thấy tụi mình.”
Charlie không muốn nghĩ đến điều đó. Nó mở hí cửa ra chừng một phân
và liếc vào trong. Thật may ơi là may. Mọi cái bàn đều phủ khăn trải bàn
trắng khổng lồ, rủ xuống chạm mí sàn.
Một cô hầu bàn đang bận rộn sắp xếp ly tách lên cái bàn trên bục cao của
tiến sĩ Bloor, nhưng ba dãy bàn kia đã được bày biện xong xuôi. Bên trên
mỗi miếng vải lót đĩa bằng nhung đỏ đều đặt một tấm danh thiếp bạc, in
một cái tên, và quanh mỗi miếng lót đĩa lại được vây quanh không biết bao
nhiêu là dao, nĩa, thìa và ly, đến nỗi Charlie không kịp đếm.