không bao giờ, không bao giờ được hé cho một linh hồn nào biết về căn
phòng này hay cánh cửa đó.”
“Ồ.” Trong một thoáng Billy im thít dòm trừng trừng cánh cửa, và rồi, vẻ
hiểu chuyện giãn ra trên gương mặt hớn hở của nó. “Đấy là một lối đi bí
mật?” Nó thì thầm. “Tới lâu đài phải không?”
“Ta đang chờ lời hứa của cháu, Billy à,” ông Onimous nghiêm giọng.
“Cháu hứa không bao giờ, không bao giờ hé cho một linh hồn nào biết về
căn phòng này hay cánh cửa đó.”
Cuối cùng ông Onimous mới mỉm cười. “Cháu không cần phải biết nhiều
hơn nữa. Quên nó đi. Hiểu chưa?”
“Dạ hiểu,” lời đáp ỉu xìu buột ra. Mặc dầu vậy, làm sao mà Billy có thể
quên được một nơi lý thú như thế này cơ chứ?
Con chuột lại bắt đầu lít chít và tất cả họ rồng rắn quay trở lại nhà bếp để
xem xem con chuột phải nói gì.
“Có tin gì về Hạt Đậu không?” Benjamin nhấp nhỏm. “Ủa, đó là con
chuột nào thế.”
“Tên nó là Rembrandt,” Charlie trả lời. “Thể nào nó cũng sẽ có chuyện
để kể cho chúng ta nghe.”
Rembrandt được đặt lên chính giữa bàn, và khi tất cả mọi người đều yên
vị nơi chỗ ngồi của mình, Billy ngân nhẹ một tiếng giục giã con chuột.
Rembrandt ngó quanh những vẻ mặt đang chờ đợi. Chú chàng là một con
chuột hòa đồng và rõ ràng rất khoái được là trung tâm của sự chú ý. Với
những tiếng chít chít nho nhỏ rồi ngưng, rồi lại gù gừ, líu ríu, nó bắt đầu
câu chuyện của mình. Dần dần, những âm thanh nó phát ra theo một kiểu
mà Charlie cũng mang máng hiểu được đó chính là lời nói.