cầu xin của tay lính đó. Sau hai giờ như vậy, ông ấy bảo tôi rằng ông ấy
định cứu tay lính. Tôi đã tranh cãi với ông ấy. Nhưng Tolliver nói với tôi
rằng Chúa muốn ông làm thử. Ông ấy đã cầu nguyện khi chúng tôi nấp
trong rừng.
“Dù tôi đã bảo với Tolliver rằng Chúa không muốn ông ngu ngốc lãng
phí mạng sống của mình như vậy - rằng ông còn có vợ con đang ngày đêm
cầu mong ông an toàn trở về nhà - Tolliver vẫn yêu cầu tôi đánh lạc hướng
quân địch trong khi ông ấy cố cứu tay lính kia. Ông chạy ra cánh đồng như
thể ông đang được nghỉ ngơi thoải mái trong một ngày xuân. Rốt cuộc ông
ấy cũng đến được chỗ tay lính kia. Nhưng rồi tiếng súng vang lên, Tolliver
gục xuống chết. Và một lúc sau, tên lính kia lại gào lên nhờ giúp đỡ.”
“Cuối cùng thì anh lính đó thế nào?” bà Fortenberry hỏi, giọng khẽ hết
mức.
“Hắn sống,” Bill đáp, và giọng anh nhuốm một sắc thái khiến tôi rùng
cả mình. “Hắn sống sót qua được ban ngày, và đến đêm thì chúng tôi cứu
được hắn.”
Những người đã khuất dường như sống lại trong lời kể của Bill, còn đối
với cụ già ở hàng ghế đầu, giờ cụ đã có một ký ức để ấp ủ trong lòng, một
ký ức nói lên rất nhiều điều về tính cách của người cụ tổ.
Tôi không nghĩ mọi người đến buổi họp mặt tối hôm đó đã sẵn sàng đón
nhận tác động của việc nghe kể về cuộc Nội Chiến từ một cựu binh. Họ đã
bị mê hoặc, họ thảy đều choáng váng.
Sau khi Bill trả lời câu hỏi cuối cùng, một tràng vỗ tay như sấm rền nổi
lên, hay ít nhất cũng là sấm rền với con số bốn mươi người ít ỏi. Kể cả Sam,
vốn không phải fan cuồng nhiệt của Bill, cũng cố gắng áp được hai bàn tay
vào nhau.
Trừ tôi và Sam, ai nấy đều muốn được nói chuyện riêng với Bill sau đó.
Trong lúc nhà diễn thuyết bất đắc dĩ bị hội Hậu Duệ bao quanh, tôi và Sam
lẻn ra chiếc xe tải của anh. Chúng tôi đến Crawdad Diner, một quán rượu