Bill tỏ ra thành thạo các phương thức giao tiếp xã hội không kém gì bà.
Họ chào nhau, cảm ơn, khen ngợi và cuối cùng Bill ngồi xuống chiếc ghế
băng còn bà ngồi ở cái ghế mây sau khi mang ra chiếc khay đựng ba tách
trà đào, vậy là hiển nhiên tôi sẽ ngồi cạnh Bill. Chẳng biết thoái thác bằng
cách nào cho lịch sự, tôi đành ngồi cạnh anh, nhưng nhích ra tận mép ghế,
ra vẻ như bất cứ lúc nào cũng sẵn sàng lao đi để rót thêm nước vào cốc trà
lạnh ngắt tượng trưng của anh.
Anh lịch sự chạm môi vào miệng cốc rồi ngồi xuống. Bà và tôi lo lắng
uống một ngụm lớn.
Bà khai mào bằng một chủ đề không thích hợp chút nào. Bà nói, “Chắc
anh đã nghe nói về cơn lốc kỳ lạ đó.”
“Bà cứ kể đi ạ,” Bill nói, giọng êm như nhung. Tôi không dám nhìn anh
mà cứ ngồi yên đó, dán mắt vào hai bàn tay đang chắp lại.
Vậy là bà kể cho anh nghe về cơn lốc xoáy kỳ quái và cái chết của nhà
Chuột. Bà kể toàn bộ câu chuyện nghe có vẻ kinh hoàng đó, nhưng chẳng
có chi tiết mới mẻ nào cả, và tôi cho là Bill đã cảm thấy thoải mái hơn chút
xíu.
“Hôm qua con có ghé vào trên đường đi làm,” tôi nói, vẫn không hề
ngước mắt lên. “Chỗ chiếc xe moóc.”
“Thế chúng có giống với hình dung của em không?” Bill hỏi, trong
giọng nói chỉ toát lên vẻ tò mò.
“Không,” tôi đáp. “Nó không hề giống với hình dung của em. Em thật
sự... ngạc nhiên.”
“Sookie, hồi trước con từng chứng kiến những thiệt hại do lốc xoáy gây
ra rồi mà,” bà kinh ngạc nói.
Tôi bèn đổi chủ đề. “Bill này, anh mua áo sơ mi ở đâu thế? Trông đẹp
quá.” Anh đang mặc quần kaki hiệu Dockers và áo chơi gôn sọc xanh nâu,
đôi giày lười bóng loáng đi kèm tất mỏng màu nâu.