Bởi vì, trẻ con không xem xét ý nghĩa của từng từ đơn một, mà nhớ cả cụm
từ, do đó, trong khi người lớn còn phải suy nghĩ từng chữ thì trẻ con đã nói
xong cả câu “It is a pen” rồi.
Công ty chúng tôi có phát minh ra một loại máy gọi là Talking card. Sẽ có
những tấm thẻ có in hình vẽ và phiên âm cách đọc trên đấy, trẻ em chỉ cần đút
thẻ vào cái máy Talking card thì âm thanh đã được ghi âm vào thẻ sẽ phát ra.
Mới đầu, khi họp bàn về việc ghi âm giọng đọc vào thẻ, tốc độ đọc là vấn đề
đau đầu nhất với chúng tôi. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là dạy tiếng Anh cho
trẻ còn chưa hiểu cả tiếng Nhật, do đó, nên để tốc độ đọc càng chậm càng tốt.
Một số khác thì đánh giá cao năng lực nhận thức nguyên mảng của trẻ, cho
nên khuyên hãy để tốc độ tự nhiên trẻ dễ hiểu hơn. Dựa trên hai phía ý kiến
trên, chúng tôi đã thử tiến hành nhiều thử nghiệm, và kết luận cuối cùng là,
trẻ càng ít tuổi thì càng nên dạy ngoại ngữ với tốc độ tự nhiên nhất.
Tôi tin chắc rằng kết luận này sẽ là nguồn động lực giúp năng lực tiếng Anh
của trẻ được phát triển. Một người mẹ nọ đã cho biết, tốc độ càng nhanh thì
con bà nhớ càng nhanh. Ví dụ, đồng dao Mother Goose mà người lớn chúng
ta nhìn vào sẽ cho là nhịp điệu quá nhanh thì một đứa trẻ 3 tuổi có thể nhớ hết
trong 2 tuần. Từ ví dụ này ta thấy, trẻ con tiếp nhận các kích thích tự nhiên
một cách vô cùng tự nhiên. Nói cách khác, nếu cha mẹ cố tình sửa thành các
“kích thích nhân tạo”, bắt trẻ phải hiểu ý nghĩa, sẽ làm đầu óc trẻ bị rối loạn.
Việc này cũng cho thấy, khi một đứa trẻ học ngoại ngữ, càng tốc độ tự nhiên
thì trẻ càng dễ nhớ.
Cũng như vậy, trong tiếng Nhật có ba bộ chữ mềm, chữ cứng và chữ Hán thì
trẻ sẽ nhớ những chữ khó là chữ Hán hơn cả, bởi vì, đối với trẻ trong thời kỳ
khuôn mẫu, chữ Hán là “chữ tự nhiên”, “chữ đương nhiên”, dễ nhận biết nhất.
Do đó, dạy chữ mềm trước rồi mới đến chữ Hán cũng là một kiểu làm không
có lợi cho trẻ.
Một công dụng nữa khi dạy ngoại ngữ cho trẻ với tốc độ tự nhiên là trẻ sẽ
khuôn mẫu hóa trong não bộ tốc độ đó, sau này không phải vất vả để luyện
tập cho mình tốc độ đó vẫn có thể tiếp nhận được.
Sửa lại khi các đường rãnh trong não đã thành hình sẽ khó khăn hơn nhiều so
với ghi vào lúc nó còn trạng thái là tờ giấy trắng. Đó là lý do nhiều người lúc
thơ ấu quen với tiếng địa phương, khi lớn lên muốn nói tiếng phổ thông phải
khổ luyện rất vất vả. Có những người cả đời không thể nào bỏ tiếng địa
phương được. Có nhiều người cho rằng với những người sống ở địa phương
đó, tiếng địa phương cũng chính là tiếng phổ thông, do đó, không cần phải cố
thay đổi làm gì. Tuy nhiên, ý tôi là, khi lớn lên nếu có lúc cần dùng đến tiếng
phổ thông, thì trang bị từ nhỏ, lúc ấy sẽ không phải vất vả tốn sức để nhớ mà
vẫn dùng được.