Do giá nhân công ở Thuỵ Sỹ khá cao, Swatch chỉ có thể đạt được mục
tiêu này bằng cách thay đổi về cơ bản sản phẩm và phương thức sản xuất.
Chẳng hạn như thay vì sử dụng kim loại hoặc da như đồng hồ kiểu truyền
thống. Swatch sử dụng vật liệu nhựa. Các kĩ sư của Swatch cũng đơn giản
hoá thiết kế bên trong của chiếc đồng hồ, giảm số linh kiện từ 150 xuống
còn 51. Họ nghiên cứu kỹ thuật lắp ráp mới với chi phí thấp hơn đó là hàn
bằng kỹ thuật hàn siêu âm thay vì dùng những con ốc vít. Thay đổi về mẫu
mã kết hợp với thay đổi trong công nghệ sản xuất cho phép Swatch giảm
chi phí nhân công trực hấp từ 30% xuống còn 10% trong tổng chi phí. Sự
cải tiến này tạo ra một cơ cấu chi phí khó cạnh tranh được và Swatch đã
thống lĩnh thị trường đồng hồ đeo tay mà trước đây các nhà sản xuất châu
Á với lợi thế về chi phí nhân công rẻ từng chiếm lĩnh.
Ngoài việc sắp xếp lại hoạt động và đưa ra những cải tiến về chi phí, đòn
bẩy thứ hai có thể giúp công ty đạt mức chi phí mục tiêu là sự hợp tác. Khi
tung ra thị trường một sản phẩm hoặc dịch vụ mới, nhiều công ty đã mắc
sai lầm khi tự mình thực hiện tất cả các hoạt động sản xuất và phân phối.
Đôi khi điều này là do họ coi sản phẩm hoặc dịch vụ đó như một yếu tố nền
tảng để phát triển những khả năng mới. Đôi khi chỉ đơn giản là do họ
không cân nhắc những khả năng lựa chọn bên ngoài. Tuy nhiên, việc hợp
tác giúp các công ty đảm bảo thực hiện những công việc cần thiết một cách
nhanh chóng và hiệu quả trong khi vẫn giảm được cơ cấu chi phí. Sự hợp
tác cho phép một công ty tận dụng kỹ năng và tính kinh tế của quy mô từ
những công ty khác. Việc hợp tác bao gồm bổ sung những khả năng còn
thiếu thông qua việc tiến hành những cuộc sáp nhập nhỏ, nếu điều đó giúp
bạn thực hiện công việc nhanh hơn với chi phí thấp hơn hay tiếp cận được
với những kỹ năng cần thiết.