Uẩn: "Bằng vào gia thế và chỗ dựa của mình, ngươi ở trong triều ắt sẽ như
cá gặp nước, sao lại phải tòng quân?"
"Tôi không muốn đi con đường được người khác trải thảm sẵn, có lẽ chọn
đường tổ tiên mình cố ý tránh né sẽ hay hơn."
Dưới anh nắng đầu thu năm ấy, Vương Uẩn, bấy giờ còn là thiếu niên, từng
nói đầy quả quyết, tựa như đã thấy bến bờ mà đời này mình sẽ cập.
Vậy là, trong danh sách các hộ vệ đi cùng mà Lý Thư Bạch trình lên triều
đình, có thêm tên Vương Uẩn. Giữa thu, họ đến ven rìa sa mạc, đứng trên
đài Phong Hỏa phóng mắt nhìn ra biên ải ngút ngàn. Cỏ úa chiều tàn, sông
dài uốn lượn, khói đùn thẳng tắp.
Họ phóng ngựa hành quân giữa sa mạc, đuổi giết quân Sa Đà xâm phạm, có
lần hăng hái còn đuổi theo đến tận lúc trăng lên, mấy chục kỵ mã giẫm lên
bóng đêm tắm máu quay về. Đất
Hồ tháng Tám đã đổ tuyết, vần trăng tàn vẫn còn treo cuối trời, những bông
tuyết đã lả tả rơi xuống sa mạc, giáp sắt loang loáng, lạnh đến thấu xương.
Lý Thư Bạch cưỡi ngựa dẫn đầu ngoái lại phóng mắt nhìn ra xa rồi ghìm
cương, tháo túi rượu đeo bên hông ngựa quăng cho Vương Uẩn.
Rượu nóng vừa vào miệng, máu trong người cũng bắt đầu sôi lên. Hơi lạnh
bị xua tan, vì vừa thắng trận nên mọi người vô cùng hào hứng, gào lên hát
ông ổng giữa đồng hoang.
Vương Uẩn không hòa giọng được với đám người đó, chỉ cưỡi ngựa ngẩng
nhìn trời, theo họ về doanh trại. Doanh Lũng Hữu đã ở ngay trước mắt, gốc
bạch du trước cửa doanh thấp thoáng giữa màn mưa tuyết. Vương Uẩn phủi
tuyết đọng trên mình, chợt sinh lòng cảm khái đọc một câu: "Tuyết bay mờ
biên ải, tắt khói Phong Hỏa đài."
"Bởi vậy, sau lần đẩy lùi Sa Đà, khải hoàn về kinh đó, ta không đem ngươi
ra trận nữa." Lý Thư Bạch chậm rãi nói, "Mỗi người đều có một nơi thuộc
về mình, kiếp này, ngươi là đích tôn nhà họ Vương Lang Gia cao nhã hào